Top 6 # Ví Dụ Về Chức Năng Tư Tưởng Của Báo Chí Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Theindochinaproject.com

Thấm Nhuần Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Báo Chí Cách Mạng

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành những tình cảm đặc biệt đối với báo chí. Là người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công việc viết báo và làm báo. Người am hiểu sâu sâu sắc hoạt động báo chí, coi báo chí là một thứ vũ khí cách mạng sắc bén và đã sử dụng báo chí một cách tài tình để tuyên truyền cách mạng

Bác Hồ nói chuyện với các nhà báo tháng 9/1960 (Nguồn: tuanbaovannghetphcm.vn).

 Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 6 năm 1925 tờ báo Thanh niên do Hồ Chí Minh sáng lập, ra số đầu tiên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam. Trải qua 94 năm đồng hành cùng dân tộc, báo chí cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết và đăng trên 2000 bài báo bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, gần 300 bài thơ, 500 trang truyện và ký, sử dụng trên 174 bút danh khác nhau. Hồ Chí Minh đã đề cập đến toàn bộ các vấn đề rộng lớn của cách mạng, của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng đặc biệt có giá trị, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng. Đó là tư tưởng, lý luận và kinh nghiệm thực tiễn rất phong phú, sâu sắc và toàn diện, độc đáo và sáng tạo về những vấn đề cơ bản của báo chí cách mạng. Bao gồm các quan điểm về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tính chất của báo chí cách mạng, về tính đảng, tính chiến đấu, tính nhân văn, về vai trò, nghĩa vụ, đạo đức, phong cách của người làm báo, về nghệ thuật để làm nên một tờ báo có giá trị.

Nhận thức sâu sắc về báo chí với sự nghiệp cách mạng tại Đại hội lần thứ II Hội nhà báo Việt Nam tháng 4 năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Báo chí của ta không để cho một số người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Báo chí cách mạng không có lợi ích gì khác, không có mục đích gì khác là phụng sự lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Do đó, báo chí của ta thì cần phải phục vụ cho nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới.

Về tính tư tưởng và tính chiến đấu của báo chí cách mạng, theo Hồ Chí Minh, tờ báo mà không có tính chiến đấu là tờ báo không có linh hồn. Một tờ báo chỉ nói những điều vô thưởng, vô phạt, những điều ngoài lề cuộc sống, những điều chẳng những không cổ vũ được mà còn làm bải hoải tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ cách mạng thì tuyệt nhiên không phải là tờ báo cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, báo chí không phải là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể mà còn là vũ khí sắc bén chống lại mọi biểu hiện phản động, tiêu cực, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của đất nước; báo chí là công cụ đấu tranh xã hội, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Báo chí cách mạng thể hiện tính chiến đấu ở các khía cạnh: tập trung lên án mạng mẽ kẻ thù, bóc trần cái xấu xa, thâm độc của kẻ thù và thức tỉnh toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng, đứng lên kháng chiến kiến quốc. Tính chiến đấu của báo chí cách mạng còn thể hiện ở việc đề cao chính nghĩa cách mạng, đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm động viên quần chúng tự giác, tự nguyện tham gia cách mạng, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Tính chiến đấu của báo chí cách mạng còn thể hiện ở việc tuyên truyền, giác ngộ quần chúng; biểu dương những cái hay, cái tốt; ngăn chặn, đấu tranh và đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực, cái lạc hậu. Tính chiến đấu còn thể hiện lập trường, tư tưởng, bản lĩnh, khí chất của người làm báo. Vì thế, Hồ Chí Minh coi nhà báo là một chiến sỹ trên mặt trận chính trị, tư tưởng. Tại Đại hội lần thứ III Hội Nhà báo Việt Nam (năm 1962), Người chỉ rõ: ‘‘đối với những người viết báo chúng ta, báo chí là một mặt trận, cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng’’. Do vậy, cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Người yêu cầu đội ngũ những người làm báo phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng. Cho nên, báo chí của chúng ta phải có đường lối chính trị đúng. Người thường xuyên nhấn mạnh mục đích viết báo phải bảo đảm tính nhân dân, tính phổ thông, tính đại chúng… người làm báo phải học cách nói của quần chúng, chớ nói như giảng sách; luôn dùng lời nói, ví dụ đơn giản, cụ thể, dễ hiểu; khi viết, khi nói phải làm thế nào cho ai cũng hiểu được, làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quan tâm đến lời kêu gọi của mình. Người thường nhắc nhở những người làm báo phải viết ngắn gọn, rõ ràng phù hợp với đông đảo quần chúng lao động, không nên viết dài dòng, lan man khó hiểu. Người căn dặn: ta làm cách mạng, ta nói và viết cho quần chúng nhân dân mà mọi người không hiểu ta nói cái gì, sao có thể gọi là cán bộ cách mạng được.

Việc bảo đảm tính chân thực và tính đa dạng trong báo chí, Người căn dặn người làm báo phải bảo đảm nguyên tắc trung thực. Khi nêu gương người tốt, việc tốt phải viết giản dị và đúng sự thật, không nói sai sự thật, không được bịa ra,  không chỉ phản ánh một chiều, chỉ tuyên truyền cái tốt mà dấu diếm cái xấu. Nêu cái hay, cái tốt phải có chừng mực, chớ phóng đại, có thế nào nói thế ấy. Bộ đội và nhân dân ta cũng đủ nhiều cái hay để nêu lên, không cần phải bịa đặt ra. Phê bình thì phải phê bình một cách thật thà, chân thành, đúng đắn, chớ không nên để địch lợi dụng để nó đả kích, tuyên tuyền, Tính đa dạng của báo chí là sự phản ánh cuộc sống một cách toàn diện, sâu sắc, nhiều mặt, không hời hợt, phiến diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ‘‘Cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi’’, cho nên báo chí phải đưa ra những thôn tin bổ ích, phản ánh khách quan, chân thực cuộc sống, xã hội. Những tính chất trên có mối quan hệ đan xen, tác động qua lại với nhau tạo nên một nét riêng sâu sắc của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng còn được thể hiện ở đạo đức người làm báo và phong cách viết báo. Hồ Chí Minh tự hào khi nhận ra mình là nhà báo. Người đặt nhà báo ngang với nhà cách mạng chuyên nghiệp. Bởi vì, nhà báo có các phẩm chất của nhà cách mạng và nhà cách mạng chuyên nghiệp đã hòa làm một với nhà báo – chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Do vậy, đạo đức báo chí Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự cầu thị khiêm nhường. Người yêu cầu các nhà báo phải có lập trường, tư tưởng vững chắc, không ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi mặt đặc biệt là trình độ chính trị; đồng thời phải hòa vào đời sống của quần chúng nhân dân để viết cho đúng với tâm trạng, nhu cầu và nguyện vọng của họ. Hồ Chí Minh khuyên các nhà báo: Nếu các bạn viết báo mà quần chúng, nhân dân hiểu, ham đọc, quần chúng nhân dân khen hay, thế là tiến bộ. Ngược lại quần chúng nhân dân chê là các bạn viết chưa thành công.

Về kỹ năng viết báo, Hồ Chí Minh căn dặn các nhà báo, trước khi cầm bút phải đặt câu hỏi: ‘‘Vì ai mà mình viết? Mục đích viết để làm gì? Viết cho ai? Viết cho đại đa số Công – Nông – Binh. Viết để làm gì? Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình, để phục vụ quần chúng, thế thì viết cái gì trong vấn đề này cũng phải có lập trường vững vàng, ta, bạn, thù thì mới viết đúng. Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta. Đồng thời phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội. Về vấn đề này, ta có thể thấy rõ sự biến hóa và uyển chuyển của Hồ Chí Minh trước từng đối tượng, trong từng tình huống.

Về hình thức diễn đạt, phương pháp thể hiện, cách trình bầy, kết cấu tác phẩm báo chí phải trong sáng, dễ hiểu và tránh cầu kỳ. Hồ Chí Minh căn dặn “Muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được, thì phải viết cho đúng trình độ người xem; viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều’’. Phải viết gọn gàng, rõ ràng, vắn tắt, nhưng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi, mà phải có đầu, có đuôi. Phải học tiếng nói của quần chúng, viết phải thiết thực. Hồ Chí Minh dạy các nhà báo cách viết rất cụ thể, tỉ mỉ, thiết thực. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Viết nên cẩn trọng, phải kiên trì và công phu ‘‘Viết xong rồi phải thế nào’’, ‘Viết rồi thì phải đọc đi, đọc lại, thấy cái gì thừa, câu nào, chữ nào thừa thì bỏ bớt đi, đọc đi, đọc lại 4,5 lần đã đủ chưa? Đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại. Phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh đọc lại. Chỗ nào ngúc ngắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải chữa lại’’. Hồ Chí Minh còn lưu ý chúng ta chớ có tự ái cá nhân, cho rằng bài viết của mình là ‘‘tuyệt’’ rồi, tự ái, tự kiêu nó ngăn chặn con đường tiến bộ của chúng ta. Không chỉ với người viết báo Hồ Chí Minh còn nhắc nhở những người tham gia làm báo, ở các khâu, các bước đều phải có trách nhiệm với công việc của mình.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng, hiện nay cả nước ta đã có trên 800 cơ quan báo chí. Bắt đầu từ năm 1997, báo điện tử chính thức hòa mạng internet. Hơn 20 năm qua, báo điện tử đã phát triển mạnh mẽ, trở thành công cụ có hiệu quả trong việc thông tin tuyên truyền các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước tới nhân dân trong nước và quốc tế. Những con số này nói lên sự lớn mạnh của báo chí cách mạng sau 94 năm kể từ khi báo Thanh niên tời báo cách mạng đầu tiên ra đời. Báo chí không chỉ là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân mà còn phản ánh kịp thời, phân tích, đánh giá đúng mức, góp phần nâng cao nhận thức của người dân và định hướng dư luận xã hội về các sự kiện, các vấn đề thời sự trong nước và trên thế giới. Báo chí còn có trách nhiệm phản ánh các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến, các mô hình tốt đạt hiệu quả trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; kịp thời đưa ra ánh sáng những vụ việc tham nhũng, lãng phí; đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, những âm mưu, thủ đoạn và luận điệu sai trái của các thế lực thù địch… Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng luôn là cẩm nang thần kỳ cho đội ngũ những người làm báo, những người lính trên mặt trận tư tưởng, văn hóa trực tiếp tham gia thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tiến trình hội nhập, quốc tế.

Theo Dangcongsan.vn

Nêu Ví Dụ Về 5 Chức Năng Của Tiền Tệ Câu Hỏi 1310417

1.Thước đo giá trị

Mỗi vật phẩm đều có giá trị khác nhau và được so sánh bằng giá trị của tiền tệ. Một đôi giày bảo hộ có giá trị bằng 7 xu ( tiền xu ngày xưa được làm từ nhôm). Một cuốn sách có giá trị bằng 2 đồng (tiền đồng được đúc từ đồng). Mà 2 đồng cũng có giá trị bằng 10 xu.Vì thế có thể nói Giá trị hàng hóa tiền tệ (vàng) thay đổi không làm ảnh hưởng gì đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó.

2.Phương tiện lưu thông

Ngày xưa Việt Nam lưu hành những đồng tiền làm bằng nhôm. Để thuận tiện người ta đã đục lỗ ở giữa đồng tiền để tiện lưu trữ và đến. Những đồng tiền bị đục lỗ đó vẫn có giá trị lưu thông trong xã hội ngày đó.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tế điều đó đã dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

3.Phương tiện cất trữ

Người giàu ngày xưa hay có thói quen cất trữ vàng, bạc trong hũ, trong rương. Bạn dễ dàng nhìn thấy trong các phim truyện xưa, cổ tích, truyện trung đại…. . Ngày nay cũng có nhiều người có thói quen cất trữ tiền trong ngân hàng. Việc làm này không đúng vì tiền cất giữ phải là tiền có giá trị như tiền vàng, bạc.

4.Phương tiện thanh toán

Hiện nay ngân hàng điều cho vay tín dụng. Bạn dễ dàng trở thành con nợ hoặc người mắc nợ của ngân hàng nếu tiêu xài phung phí, không đúng cách.

6.Tiền tệ thế giới

Do ngành du lịch phát triển, nên mọi người dễ dàng du lịch nước ngoài. Khi đi du lịch bạn cần đổi tiền tệ của mình sang tiền tệ nước ngoài. Tỷ giá hối đoái dự vào nền kinh tế của các nước nên có giá trị khác nhau. Hiện tại, như Mỹ – Việt Nam là: 1 USA = 23.143 VNĐ…………..

Chương Vii Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Văn Hóa

, Student at Ho Chi Minh Open University

Published on

Tư tưởng Hồ Chí Minh chương VII tư tưởng hồ chí minh về văn hóa

1. CHƯƠNG VII: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI GVHD: Cô Phạm Kim Dung Nhóm thực hiện: Nguyễn Thị Hòa STT 27 Lê Thị Ân Huệ STT 29 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2. NỘI DUNG Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới

3. I. NHỮNG QUAN ĐiỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA A. Định nghĩa về văn hóa ” vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn , ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.” 1. Định nghĩa về văn hóa và quan điểm xây dựng nền văn hóa mới

4. Giá trị vật chất Giá trị tinh thần VĂN HÓA Nhằm đáp ứng sự sinh tồn cũng là mục đích sống của loài người

5. b. Quan điểm về xây dựng nền văn hóa Xây dựng nền văn hóa 1. Xây dựng tâm lý 2. Xây dựng luân lý 3. Xây dựng xã hội 4. Xây dựng chính trị 5. Xây dựng kinh tế

6. a. Quan điểm về Vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội Một là văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng Văn hóa Chính trị Kinh tế Xã hội 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa

7. chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển Trong quan hệ với chính trị

8. Trong quan hệ với kinh tế Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa

9. Hai là, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy phát triển văn hóa Chính trị Văn hóa Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia vào cách mạng, kháng chiến và xây dựng xã hội chủ nghĩa Kinh tế Văn hóa Văn hóa phải phục vụ thúc đẩy việc phát triền kinh tế

10. b. Quan điểm về Tính chất của nền văn hóa Tính khoa học Chiều sâu đặc trưng của văn hóa dân tộc, Tính dân tộc Tính đại chúng Hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu thời đại , kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại Phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên

11. c. Quan điểm về chức năng của văn hóa Tư tưởng Tình cảm Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn Thấp hèn Cao đẹp Sai lầm Đúng đắn

12. c. Quan điểm về chức năng của văn hóa Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí Nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng đảng ” biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống vui tươi hạnh phúc.  

13. c. Quan điểm về chức năng của văn hóa Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh, hướng dẫn con người đến chân, thiện , mỹ để hoàn thiện bản thân Văn hóa giúp con người hình thành nên những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ, văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi Phẩm chất Đạo đức Đạo đức Lối sống Thói quen Phomg tục tập quán Đạo đức Lối sống Thói quen Phong tục tập quán

14. 3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hóa a. Văn hóa giáo dục Nền giáo dục phong kiến Nền giáo dục thực dân Tầm chương  kinh viện  bất bình đẳng  trọng nam khinh nữ Ngu dân  đồi bại  xảo trá  nguy hiểm hơn cả sự dốt nát

15. Nền giáo dục hiện đại Mục tiêu *Thực hiện ba chức năng của văn hóa thông qua việc dạy và học Nội dung *Văn hóa *Chính trị *Khoa học- kỹ thuật *Chuyên môn nghề nghiệp *Lao động Phương châm, phương pháp *Phương châm: học đi đôi với hành *Phương pháp: phù hợp với trình độ người học, lứa tuổi Đội ngũ giáo viên *Có đạo đức cách mạng *Yêu nghề nghiệp *Đoàn kết *Giỏi về chuyên môn *Thuần thục về phương pháp

16. b. Văn hóa văn nghệ Một là, văn hóa – văn nghệ là một mặt trận. Nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cach mạng Hai là, văn nghệ phải gắn với đời sống thực tiễn của nhân dân Ba là, phải có những tác phẩm mới xứng đáng với thời đại của đát nước và dân tộc

17. c. Văn hóa đời sống Đạo đức mới Nếp sống mớiLối sống mới Sống có lý tưởng, đạo đức Cần. Kiệm, liêm, chính Xây dựng nếp sống văn minh

18. Xây dựng văn hóa đời sống mới nhằm biến Việt Nam từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu trở thành một quốc gia văn minh và phú cường là một công việc lâu dài và phải có phương pháp tốt

19. * Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức * Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

21. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng Người cách mạng phải có đức, không có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.

22. Đạo đức Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội Phẩm chất đạo đức cao quý Chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam và thế giới + nguồn cổ vũ động viên tinh thần mạnh mẽ.

23. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng Trung với nước, hiếu với dân Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư Thương yêu con người, sống có tình nghĩa Có tinh thần quốc tế trong sáng

24. Trung với nước, hiếu với dân Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư Siêng năng, chăm chỉ Tiết kiệm Trong sạch, không tham lam Ngay thẳng Công bằng, công tâm, không thiên vị Thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng Trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh, tiến bộ.

25. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa Có tinh thần quốc tế trong sáng Nếu không có tình yêu thương thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản trên toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, chống lại mọi sự chia rẽ, thù hằn, phân biệt chủng tộc…

27. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Việc tu dưỡng đạo đức hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Thanh niên phải có đức, có tài. Thực hành tốt đạo đức cách mạng giúp ta vượt qua khó khăn, thử thách. Trong xã hội, mỗi người có công việc, vị trí, tài năng khác nhau, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.

28. Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh yêu Tổ quốc Nhân dân Chủ nghĩa xã hội Lao động Khoa học và kỷ luật

29. Làm thế nào để có được những phẩm chất ấy?  Rèn luyện đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực.  Xác định rõ nhiệm vụ của mình.  Kết hợp học tập và rèn luyện.  Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay.  Chống lười biếng.  Chống kêu ngạo, giả dối, khoe khoang.  Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ thế nào là tốt, xấu? Ai là bạn, ai là thù?

30. Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên, thanh niên hiện nay Phần lớn sinh viên, thanh niên tri thức vẫn giữ được đạo đức tốt, lối sống lành mạnh. Đây là những biểu hiện không thể coi thường.

31. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 1. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. 3. Đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người. 4. Tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. HỌC

32. III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể Chỉnh thể thống nhất về: tâm lực, thề lực và các hoạt động Con người trong tính đa dạng: Trong quan hệ xã hội  trong tính cách  trong phẩm chất  trong khát vọng  trong khả năng Sự thống nhất của 2 mặt đối lập Hay Dở Tốt Xấu Thiện ác Hiền Dữ Tính người Tính bản năng

33. b. Con người cụ thể, lịch sử Nghĩa rộng Nghĩa hẹp  ” phẩm giá con người”  “giải phóng con người”  ” người ta”  ” con người”  ” ai”  Con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp  Theo giới tính  Theo lứa tuổi  Theo nghề nghiệp  Trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc  Trong quan hệ quốc tế Con người hiện thực, cụ thể, khách quan

34. c. Bản chất của con người mang tính xã hội Sinh tồn Nhận thức Hiện tượng  quy luật tự nhiên, xã hội Hiểu mình, hiểu người Xác lập mối quan hệ

35. c. Bản chất của con người mang tính xã hội Sản phẩm Tổng hợp các mối quan hệ xã hội từ rộng đến hẹp, bao gồm: quan hệ anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loài người

36. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.

37. “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”

Chức Năng Xúc Tác Của Protein: Ví Dụ. Các Chức Năng Chính Của Protein

Protein được một cách tự nhiên xảy ra các hợp chất hữu cơ trong đó có một cấu trúc phân tử. Các phân tử của các chất này là nerazvetvlyayuschimsya polymer. Protein được xây dựng từ 20 axit amin. Họ là các phân tử cấu trúc đơn vị tối thiểu – monomer. Tất cả các thành phần được kết nối với nhau polypeptide protein, hay nói cách khác – một urê, một mắt xích trong chuỗi thời gian đủ dài. Trong trường hợp này, trọng lượng phân tử có thể dao động từ vài nghìn đến hàng triệu những hạt nguyên tử.

Gì có thể là một protein

Để xác định các chức năng chính của protein, nó là cần thiết để hiểu được cấu trúc của các chất này. Hiện nay có hai loại thành phần nhân lực quan trọng này: xơ và hình cầu. Phân biệt chúng chủ yếu là do sự khác biệt trong cấu trúc của phân tử protein.

chất hình cầu là cũng hòa tan không chỉ trong nước mà còn trong các dung dịch muối. Như vậy như một phân tử protein có hình dạng hình cầu. Như một khả năng hòa tan tốt có thể dễ dàng giải thích vị trí của amino acid tính, được bao bọc bởi một lớp vỏ hydrat hóa, trên bề mặt của giọt. Đây là những gì cung cấp địa chỉ liên lạc tốt với các dung môi khác nhau. Cần lưu ý rằng các thành phần trong nhóm hình cầu bao gồm tất cả các enzym, cũng như protein hầu như tất cả các hoạt tính sinh học.

Đối với các chất xơ với, các phân tử của họ có một cấu trúc dạng sợi. Chức năng xúc tác của protein rất quan trọng. Do đó rất khó để tưởng tượng hiệu quả của nó không có tá dược. protein sợi nhỏ hợp không hòa tan bất kỳ giải pháp muối, hoặc trong nước bình thường. phân tử của họ được bố trí song song trong chuỗi polypeptide. những chất này đang tham gia vào sự hình thành của một số các yếu tố cấu trúc của mô liên kết. Nó elastin, keratin, collagen.

Một nhóm đặc biệt của protein phức tạp, trong đó bao gồm không chỉ các axit amin mà còn là nucleic acid, carbohydrate và các chất khác. Tất cả các thành phần này đóng một vai trò quan trọng. Đặc biệt quan trọng là chức năng xúc tác của protein. Bên cạnh đó, chất đó là kế hoạch sắc tố hô hấp, kích thích tố, cũng như một sự bảo vệ đáng tin cậy cho bất kỳ sinh vật. Sinh tổng hợp protein được thực hiện trên các ribosome. Quá trình này được xác định bởi nguồn phát sóng của các axit nucleic.

Chức năng xúc tác của protein

xúc tác là gì

Đã vào năm 2013, các nhà khoa học đã tìm thấy hơn một chút so với 5000 enzym. Những chất này có thể ảnh hưởng đến quá trình hầu như tất cả các phản ứng sinh hóa. Để trở thành chức năng xúc tác rõ ràng hơn của protein, nó là cần thiết để hiểu là những gì xúc tác. Với ngôn ngữ Hy Lạp khái niệm này được dịch là “chấm dứt”. Xúc tác là một sự thay đổi vận tốc dòng chảy của bất kỳ phản ứng hóa học. Điều này xảy ra dưới tác động của các hợp chất nhất định. Enzyme đóng vai trò như một chất xúc tác protein. Các ví dụ về hiện tượng này được tìm thấy thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày. Chỉ cần một người đàn ông không để ý.

VÍ DỤ chức năng xúc tác

Để hiểu cách thức hoạt động của các enzyme, nó là giá trị xem xét một vài ví dụ. Vì vậy, chức năng xúc tác của protein là gì. ví dụ:

Trong quá trình quang xúc tác ribulezobifosfatkarboksilaza cung cấp cố định CO 2.

Hydrogen peroxide được chẻ với oxy và nước.

DNA polymerase tổng hợp DNA.

Amylase là sẽ tách có khả năng tinh bột để maltose.

chức năng vận chuyển

chức năng quan trọng của mỗi tế bào phải được duy trì bởi các chất khác nhau mà không phải là duy nhất cho vật liệu xây dựng của họ, mà còn là một loại năng lượng. chức năng sinh học bao gồm protein và vận chuyển. Các thành phần này được cung cấp trong các tế bào tất cả các vấn đề quan trọng, bởi vì các màng được xây dựng bằng nhiều lớp lipid. Nó là ở đây và có một loạt các protein. Trong trường hợp này, các vùng ưa nước tất cả tập trung trên bề mặt và đuôi – trong độ dày của màng tế bào. Cấu trúc này không cho phép thâm nhập vào các tế bào là chất rất quan trọng – các ion kim loại kiềm, axit amin và đường. Protein được chuyển tất cả các thành phần vào các tế bào cho chế độ dinh dưỡng của họ. Ví dụ, hemoglobin vận chuyển oxy.

thụ

Các chức năng chính của protein không chỉ cung cấp các tế bào năng lượng của cơ thể sống, mà còn giúp xác định các tín hiệu đến từ các tế bào môi trường và láng giềng bên ngoài. Ví dụ nổi bật nhất của hiện tượng này – các thụ thể acetylcholine, nằm trên màng liên lạc về interneural. Quá trình chính nó là rất quan trọng. Protein thực hiện chức năng thụ và sự tương tác của họ với acetylcholine được thể hiện một cách cụ thể. Kết quả là, bên trong tín hiệu tế bào truyền đi. Tuy nhiên, sau một thời gian, dẫn truyền thần kinh phải được loại bỏ. Chỉ trong trường hợp này, các tế bào sẽ có thể nhận được tín hiệu mới. Nó được chức năng này được thực hiện bởi một trong những enzyme – atsetilholtnesteraza mà thực hiện tách lên cholin gidrolizatsetilholina và acetate.

bảo vệ

Hệ thống miễn dịch của bất kỳ chúng sanh nào có thể đáp ứng với sự xuất hiện của các hạt nước ngoài trong cơ thể. Trong trường hợp này, các protein được kích hoạt chức năng bảo vệ. Trong cơ thể, có một sự phát triển của một số lượng lớn các tế bào lympho, mà có thể làm hỏng các vi khuẩn, gây bệnh phân tử, và các tế bào ung thư khác. Một trong những nhóm các chất protein cụ thể thế hệ kế tiếp – globulin miễn dịch. Đây là một phân bổ của các chất này trong máu. Các globulin miễn dịch nhận ra các hạt nước ngoài và tạo thành một phức hợp giai đoạn phá hủy rất cụ thể cụ thể. Vì vậy, thực hiện chức năng bảo vệ của protein.

cấu trúc

Hàm lượng protein trong tế bào đi không được chú ý cho một người đàn ông. Một số chất là ý nghĩa chủ yếu về cấu trúc. Những protein này cung cấp độ bền cơ học để các mô cá nhân trong sinh vật. Trước hết, đó là collagen. Đây là thành phần chính của ma trận ngoại bào của tất cả các mô liên kết trong cơ thể sống.

Cần lưu ý rằng trong động vật có vú collagen làm cho khoảng 25% tổng trọng lượng của protein. Tổng hợp các thành phần này xảy ra trong các nguyên bào sợi. Đây là những tế bào cơ bản của bất kỳ mô liên kết. Nguyên hình thành procollagen. Tài liệu này là một tiền thân và được xử lý hóa học, trong đó bao gồm trong quá trình oxy hóa của hydroxyproline để prolin dư lượng, và để gidrksilina dư lượng lysine. Collagen được sản xuất theo hình thức ba chuỗi peptide, xoắn vào một vòng xoáy.

Đó là không phải tất cả các chức năng của protein. Sinh học – khá một khoa học phức tạp, cho phép bạn để xác định và nhận ra nhiều sự kiện diễn ra trong cơ thể con người. Mỗi chức năng của protein đóng một vai trò đặc biệt. Như vậy, trong các mô đàn hồi, chẳng hạn như phổi, thành mạch máu và da có sự đàn hồi. protein này có thể kéo dài và sau đó trở về hình dạng ban đầu của nó.

protein động cơ

Cơ bắp co – một quá trình mà trong đó việc chuyển đổi năng lượng dự trữ dưới dạng các phân tử ATP trong mối liên kết pyrophosphate macroergic, cụ thể là vào công việc cơ khí. Trong trường hợp này, các chức năng của protein trong tế bào hoạt động myosin và actin. Mỗi trong số họ có những đặc điểm riêng của mình.

Myosin có cấu trúc không bình thường. protein này bao gồm sợi phần đủ dài – đuôi, cũng như một số người đứng đầu hình cầu. Myosin được phát hành, thường ở dạng của một hexame. Thành phần này được hình thành hoàn toàn nhiều chuỗi polypeptide giống hệt nhau, mỗi trong số đó có trọng lượng phân tử 200 ngàn, và cũng có 4 dây chuyền có trọng lượng phân tử chỉ 20.000 là.

Actin là một protein hình cầu có khả năng polymerize. Khi tài liệu này tạo thành một cấu trúc đủ dài, được gọi là F-actin. Chỉ trong một thành phần nhà nước như vậy thường có thể tương tác với myosin.

Ví dụ về các chức năng chính của protein

Mỗi thứ hai trong các tế bào của một cơ thể sống xảy ra các quá trình khác nhau mà sẽ là không thể không có protein. Một ví dụ về chức năng thụ các chất đó có thể đóng vai trò như một tế bào nhắn adrenoceptor gia nhập adrenaline. Khi tiếp xúc với ánh sáng của phân hủy Rhodopsin. Hiện tượng này bắt đầu phản ứng và cây đũa quay.

Một ví dụ về chức năng vận chuyển hemoglobin vận chuyển oxy đi khắp cơ thể sống.

Tóm lại

Đây là tất cả các chức năng sinh học cơ bản của protein. Mỗi trong số họ là rất quan trọng đối với cơ thể sống. Trong chức năng cụ thể này được thực hiện protein tương ứng. Sự vắng mặt của các thành phần như vậy có thể gây ra trục trặc của các cơ quan nhất định và các hệ thống trong cơ thể.