Đất nhiễm mặn là hiện tượng nguy hiểm ảnh hưởng xấu tới sự sinh trưởng của nhiều loại cây trồng. Ở Việt Nam, đất mặn có xấp xỉ 2 triệu ha, chiếm gần 6% tổng diện tích đất tự nhiên (Theo Sở nông nghiệp TP.HCM). Quá trình mặn hóa là do ảnh hưởng của nước biển, do đó, thành phần các loại muối tan ở đất mặn Việt Nam giống như thành phần muối tan của nước biển (Lê Văn Khoa, Đất và môi trường, 2003).
Hiện nay, dưới tác động của biến đổi khí hậu, với biểu hiện là mực nước biển dâng lên, vấn đề mặn hóa có nguy cơ trầm trọng hơn. Cải tạo đất nhiễm mặn làm sao cho hiệu quả là một vấn đề mà người nông dân luôn quan tâm để có thể an tâm canh tác, đặc biệt là ở các vùng thường xuyên bị ngập mặn như khu vực ven biển như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong bài viết này, LINA Supply Chain đã tổng hợp được các biện pháp cải tạo đất nhiễm mặn hiệu quả nhất, bao gồm: Biện pháp thủy lợi, biện pháp sinh học, biện pháp luân canh và biện pháp hóa học.
1. Biện pháp thủy lợi
Nông dân xã An Ninh Đông (huyện Tuy An) bơm nước ngọt rửa mặn, phóng phèn (theo baophuyen.com.vn)
Đất mặn có chứa chủ yếu là các muối hòa tan như clorua, natri sunfat, canxi và magie nên chúng có thể dễ dàng được rửa trôi mà không làm tăng pH nhiều. Rửa mặn bằng nước mưa hay nước tưới là con đường để loại bỏ muối thừa ra khỏi đất. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này cần xây dựng hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh để đưa nước vào các cánh đồng để rửa mặn và tiêu nước đi.
Đầu tiên, đưa nước ngọt vào rửa mặn: dẫn nước ngọt vào ruộng, cày, bừa, sục bùn để các muối hòa tan, ngâm ruộng sau đó tháo nước ra kênh, mương, ra sông.
Tiếp theo, cày sâu, đưa vôi nông nghiệp (CaCO3) và vôi thạch cao (CaSO4) ở các lớp đất sâu lên mặt đất, cày phá đáy làm tơi xốp tầng đế cày, cắt đứt mao quản làm cho muối không thể bốc lên mặt đất được. Đây là biện pháp thường áp dụng đối với các loại đất mặn được hình thành trong điều kiện khô hạn và bán khô hạn.
Lượng nước cần thiết để thực hiện hiệu quả việc rửa mặn cho đất tùy thuộc vào các yếu tố như sau:
Hàm lượng độ mặn ban đầu trong đất,
Mức độ mặn của đất ít nhất thích hợp cho cây trồng.
Độ sâu đất cần cải tạo, trong đó đặc tính của đất là yếu tố chính để xác định lượng nước cần thiết cho việc rửa mặn.
Khoảng 80% lượng muối sẽ bị loại bỏ ra khỏi 30cm đất nếu một mực nước tương đương được bơm vào, tương tự như vậy, để giảm hàm lượng muối của 50cm đất xuống 20% sẽ cần sự di chuyển của khoảng 50cm nước thông qua đất.
2. Biện pháp sinh học
Tuyển chọn và lai tạo các giống cây chống chịu mặn, xác định các loại cây trồng có khả năng chịu mặn khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn cải tạo đất và từng vùng canh tác với các hệ thống canh tác khác nhau, ví dụ: chọn lọc các giống mía chịu mặn cho vùng trồng ở Cù Lao Dung (Sóc Trăng) vụ sản xuất năm 2015 đã bị mặn xâm nhập gây thiệt hại nặng. Chọn lọc các giống lúa chịu mặn cho vùng sản xuất dễ bị nhiễm mặn và cho vùng lúa, tôm.
Giống lúa OM9921 có khả năng chịu mặn 4‰, chịu phèn khá
Viện Lúa ĐBSCL (2016) đã khuyến cáo các giống lúa do Viện chọn, tạo có khả năng chịu mặn như sau:
STTGiống lúaĐộ chịu mặnĐộ chịu phènNăng suất1OM69763-4‰Tốt6 – 9 tấn/ha2OM25173-4‰Không chịu phèn5 – 8 tấn/ha3OM56294-6‰Tốt, đặc biệt vùng phèn mặn6 – 8 tấn/ha4OM80173-4‰Khá7 – 9 tấn/ha5OM99214‰Khá7 – 8 tấn/ha6OM81084‰Khá6 – 8 tấn/ha7OM66774-6‰Khá5 – 8 tấn/ha8OM102524-6‰Khá (mang gene ngập và mặn)7 – 9 tấn/ha9OM61623-4‰Không chịu phèn6 – 8 tấn/ha10OM49002-3‰Không chịu phèn7 – 8 tấn/ha11OM54512-3‰Khá6 – 8 tấn/ha11 giống lúa có khả năng chịu mặn tốt do Viện Lúa ĐBSCL chọn
Tất cả các giống trên đều thích hợp cho các tiểu vùng sinh thái ở ĐBSCL.
Hiện tại chưa có nghiên cứu nhiều về cỏ chăn nuôi thích nghi vùng mặn. Tuy nhiên trong thực tế đã có nhiều loại cỏ như cỏ chỉ, cỏ nước mặn, cỏ bắp nước có thể phát triển sau vụ lúa và trong giai đoạn nước mặn nuôi tôm ở vùng lúa – tôm.
3. Biện pháp luân canh
Cải tạo đất bằng luân canh cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Trên các vùng đất mặn vùng sát biển nhất thì nuôi trồng thủy sản, tiếp theo là trồng cói và các cây chịu mặn, trong cùng là trồng lúa. Từ thực tiễn luân canh cơ cấu cây trồng vật nuôi ở các tỉnh ven biển miền Bắc, người ta đã đúc kết kinh nghiệm: “lúa lấn cói, cói lấn cá, cá lấn biển”.
Nông dân thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu kiểm tra tôm càng xanh xen lúa.
Nhiều tỉnh đã có phương án giảm diện tích lúa 2-3 vụ/năm sang trồng lúa 1 vụ luân canh với nuôi tôm hoặc nuôi trồng thủy sản trong thời gian nhiễm mặn. Nhiều vùng lúa – tôm đã đem lại hiệu quả cao và thu nhập ổn định cho nông dân. Các tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có mô hình luân canh tôm sú – lúa là một hệ thống canh tác đặc biệt và đã trở thành tập quán canh tác hàng chục năm nay.
Hiện nay ở ĐBSCL đang có 7 tỉnh áp dụng hệ thống canh tác tôm – lúa là Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre, Kiên Giang và Long An. Trong đó, có một số tỉnh không chỉ có tôm sú mà còn có các loài thủy sản khác như tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh, cua, cá các loại v.v. với tổng diện tích khoảng 140.000 ha, trong đó diện tích lớn nhất là Kiên Giang với 60.000 ha và thấp nhất là Long An với 500 ha.
4. Biện pháp hóa học
Trong đất nhiễm mặn có ion Na+ đóng vai trò hết sức quan trọng. Ion này sẽ gây ra các tính chất ảnh hưởng có hại về mặt vật lí, hóa học, sinh học v.v. Khi cải tạo hóa học đất mặn, nhất thiết phải loại trừ ion Na+ trong dung dịch đất và keo đất bằng việc thay thế bởi ion Ca2+.
Giải phóng Na+ ra khỏi keo đất tạo thuận lợi cho việc rửa mặn, tháo nước ngọt vào rửa mặn, bổ sung chất hữu cơ. Sau khi bón vôi cho đất chúng ta nên bón thêm phân xanh, phân hữu cơ có tác dụng làm tăng lượng mùn cho đất, giúp vi sinh vật phát triển, giúp đất tơi xốp, giảm tỉ lệ sét, tăng tỷ lệ bùn, hạt keo.
Bón vôi cho đất để giảm bớt độ mặn, diệt trừ nấm bệnh
Người ta thường dùng các dạng vôi có chứa canxi hoặc lân có chứa canxi để cải tạo đất mặn. Lượng vôi được bón để cải tạo đất tùy theo loại cây trồng và thành phần cơ giới đất nhẹ hay nặng: đất rất mặn thường kết hợp với chua, phèn.
Độ pH < 3,5 bón 2,0 – 5,0 tấn phân bón vôi (CaO)/ha;
Độ pH từ 3,5 – 4,5 bón 1,0 – 2,0 tấn/ha;
Độ pH = 4,5 – 5,5 bón 0,5 – 1,0 tấn/ha.
Đất nhiễm mặn thường đi kèm với độ phèn cao. Một trong những biện pháp xử lý là sử dụng phân Lân nung chảy. Phân Lân nung chảy (Lân Văn Điển & Ninh Bình), còn gọi là Tecmo phosphate hoặc Phosphat canxi magiê. Phân Lân này dạng bột rời màu xanh xám, ít tan trong nước, dễ tan trong axit, không chua. Được khuyến cáo sử dụng thích hợp cho đất phèn, mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều loại đất khác. Đất càng chua phèn hiệu quả của phân Lân nung chảy càng cao.