Cập nhật thông tin chi tiết về Tuần 4. Bài Ca Ngất Ngưởng mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nguyễn Công Trứ Bài ca ngất ngưởngGV: HỒ LÊ ANH THẢO1234Tác giả, tác phẩmKhái niệm”ngất ngưởng”“Ngất ngưởng” chốn quan trường“Ngất ngưởng” lúc về hưu5“Ngất ngưởng” lúc triều chung6Tổng kết-Nguyễn Công Trứ (1778-1858)hiệu là Hi Van, quê ở Hà Tĩnh.-Là ngưuời văn võ song ton , nhuưnggặp nhiều thăng trầm trên conđuường công danh.-Ông rất giàu lòng yêu nuớc.
I.TÌM HIỂU CHUNG: 2.Tác phẩm:-Chủ yếu là thơ chữ Nôm.-Thể loại ưua thích: Hát nói-Bài ca ngất ngưuởng duợc sáng tác sau năm 1848 (năm Nguyễn Công Trứ về nghỉ tại quê nhà).Một số hình ảnh về hát ca trùBố cục của tác phẩm?3) Bố cụcbố cụcGiới thiệu tài năng danh vị xã hội của nhà thơ.(6 câu đầu)Phong cách sống và phẩm chất, bản lĩnh của nhà thơ(12 câu tiếp)Khẳng định phong cách sống của mình(câu kết)II. Đọc- hiểu văn bản1. Khái niệm ” Ngất ngưởng”– Xuất hiện: 4 lần (câu 4, 8, 12 và câu cuối)Ngất ngưởng: diễn tả vị thế cao mà không vững.Thái độ sống “Ngất ngưởng”: + Là khác người, xem mình cao hơn người khác+ Là thoải mái, tự do, phóng túng, không theo một khuôn khổ nào hết
2. “Ngất ngưởng ở chốn quan trường”II. Đọc- hiểu văn bảnTài năng của tác giả đuợc bộc lộ nhuư thế nào?Biện pháp nghệ thuật?
* Thú ăn chơi: “ca”, “tửu”, “cắc”. “tùng”: thái độ hành lạc thỏa thích, phong túng, tự do, thích gì làm nấy, sống theo cách mình * Quan niệm sống, thái độ sống:– Ngất ngưởng: coi thường sự được mất, khen chê ở đời.– Ngất ngưởng: sống thanh nhã, không vướng tục, không danh lợi.Ngất ngưởng: tự khẳng định mình là cái tôi trung thành, sánh ngang hàng với các danh tướng TQ: Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật.3. ” Ngất ngưởng” lúc về hưu:Lúc về hưu không thấy yến tiệc linh đình, không có tặng phẩm, ngựa quý vua ban mà thay vào đó là?Thú vui của NCT được thể hiện trong câu thơ nào?NCT có quan điểm sống như thế nào?
Qua đây cho chúng ta thấy nhà thơ đã ý thức rõ về bản thân? Em có cảm nhận gì về phẩm chất của NCTPhẩm chất, bản lĩnh trưuớc số phận:Ung dung, t? do, phúng khoỏng, c?ng c?i– Khẳng định: nhà thơ là một đại thần ngất ngưởng trong triều: không ai trong triều như ông, bằng ông– Dụng ý: nêu bật sự khác biệt của mình đối với tập đoàn PK đó là cái tôi đứng bên ngoài đám quan lại nhợt nhạt。4.”Ngất ngưởng ở chốn triều cung”Tại sao đang nói về cái tôi “ngất ngưởng” ở chốn quê nhà, tác giả lại quay về chốn quan trường để k/đ cái tôi ngất ngưởng của mìnhQua đó, em có đánh giá ntn về cái tôi “ngất ngưởng” của NCT?Nhận xét: – Nhà thơ đã ý thức rõ về bản lĩnh và phẩm chất giá trị của bản thân. Cái tôi ngất ngưỡng của NCT là cái tôi đáng trọng.
– Đây là bài hát nói viết theo lối tự thuật, có hình thức tự do (về vần, nhịp)Có sự kết hợp hài hòa giữa từ Hán Việt, chữ Nôm và ngôn ngữ hàng ngày.BPNT: điệp từ, liệt kê, phép đối, câu nghi vấn, so sánh…NGHỆ THUẬTYÊU CẦU VỀ NHÀ壹贰bài tập trắc nghiệm
Câu 1: Câu “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” cho thấy Nguyễn Công Trứ là con nguười nhưu thế nào ? A-Có trách nhiệm cao với cuộc đời. B-Có tài năng xuất chúng, hơn nguười. C-Có niềm tin sắt đá vào bản thân. D-Có lòng yêu nuước tha thiết.bài tập trắc nghiệm
Câu 2: Hình ảnh mây trắng trong câu “Kìa núi nọ phau phau mây trắng” là biểu tưuợng cho cái gì ? A-Vẻ đẹp của thiên nhiên. B-Cuộc sống ẩn dật thanh cao. C-Tột đỉnh của vinh hiển trong cuộc đời làm quan của tác giả. D-Sự bất tử của con nguười nổi tiếng.CÂU HỎI THẢO LUẬN(?) Nếu ngất ngưởng là một phong cách sống thì phong cách sống ấy như thế nào?
Đó có phải là cách sống lập dị giống như một số người hiện đại?Ngất ngưởng: là phong cách sống có bản lĩnh, có cá tính, trung thực, thảng thắn, ý thức rõ về bản thânKhác lối sống lập dị.(?) Muốn thể hiện phong cách sống tích cực như Nguyễn Công Trứ, tuổi trẻ cần có những phẩm chất, năng lực gì? CÂU HỎI THẢO LUẬNCó những phẩm chất trí tuệ và năng lực nhất định.CỦNG CỐTừ “Ngất ngưởng” trong Bài ca ngất ngưởng được hiểu là:A. Một người với thân hình cao vượt hẳn xung quang nhưng trong tư thế ngả nghiêng , chông chênh không vững chắc.B. Một thái độ khoe tài, tự tôn, cố tình làm những điều khác thường trái với thế tục, với lễ giáo phong kiến.C.Một ý thức về trách nhiệm, tài năng, danh vị, bản lĩnh, phẩm chất, giá trị , quyền lợi của bản thân nhà thơ.D. Một quan điểm sống, triết lí sống cao đẹp của Nguyễn Công Trứ: mình vì mọi người, mọi người vì mình.
Đọc Hiểu Bài Ca Ngất Ngưởng
1. Tác giả
Nguyễn Công Trứ làm quan cho nhà Nguyễn, nhưng tính tình phóng khoáng, thích tự do nên cuộc đời quan trường khá lận đận. Nguyễn Công Trứ là nhà nho yêu nước thương dân. Ông để lại khoảng 50 bài thơ, hơn 60 bài ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú. Các sáng tác của ông chủ yếu viết bằng chữ Nôm.
2. Bài ca ngất ngưởng thuộc thể hát nói, được sáng tác sau 1848, khi ông đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do nhàn tản. Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Bài thơ là sự ý thức rất rõ tài năng và nhân cách sống của một nhà nho có tài, có nhân cách.
3. Khi đọc chú ý nhấn giọng từ ngất ngưởng ở những vị trí khác nhau, chú ý cách ngắt nhịp, âm điệu các câu thơ, xen kẽ giữa nhịp dồn với câu dài : 3/3/4 (câu 3), 3/3 (câu 5)…, 5 câu thơ cuối (2/2/2, 2/2/3…).
1. Bài ca ngất ngưởng được làm theo thể hát nói – một thể thơ bác học phát triển mạnh đầu thế kỉ XIX do các tác gia người Việt sáng tạo trong môi trường văn hoá song ngữ Hán Nôm thời trung đại, đó là thể thơ “nửa hát, nửa nói, có tính chất kể chuyện”. Nhiều nhà nho, nhà thơ, nhà chính trị nổi tiếng lúc đó, dường như đều gửi gắm tâm sự của mình trong hát nói. Nhờ đó thể loại này nhanh chóng chiếm được vị trí độc tôn và trở thành một khuynh hướng văn học của thời đại.
Có thể nói, so với các bài thơ Đường luật gò bó, hát nói phóng khoáng hơn nhiều. Hát nói có quy định về số câu, về cách chia khổ nhưng nhìn chung người viết hoàn toàn có thể phá cách toàn bộ điều này để tạo nên một tác phẩm tự do về số câu, số chữ, về cách gieo vần, nhịp điệu,… Sự phóng khoáng của thể thơ đặc biệt thích hợp với việc chuyển tải những quan niệm nhân sinh mới mẻ của tầng lớp nhà nho tài tử khao khát khẳng định mình, sống theo mình, coi thường những ràng buộc chật chội của lễ nghi, của cuộc đời trần thế mà Nguyễn Công Trứ là một đại biểu ưu tú nhất.
Bài thơ thuộc loại hát nói dôi khổ gồm 19 câu, gieo vần theo một bài hát nói điển hình. Câu đầu tiên gieo vần chân, thanh trắc, câu 2, 3 gieo vần lưng, thanh bằng, các cặp câu cứ như thế luân phiên đến hết bài. Trong bài có xen kẽ những câu thơ chữ Hán và số lượng từ trong các câu không cố định. Điều đó làm nên giọng điệu đặc trưng của bài hát nói, thể hiện được tâm trạng và tình cảm của nhân vật trữ tình.
2. Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng các từ, cụm từ mang tính chất tự xưng, đó là : Ông Hi Văn, tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng, phường Hàn, Phú. Những cách tự xưng này đã góp phần thể hiện cái ngất ngưởng, thái độ tự tôn, sự ngông ngạo của Nguyễn Công Trứ, làm nổi bật hình ảnh cái tôi cá nhân cao ngạo của tác giả.
3. Ngất ngưởng là một từ láy tượng hình vốn được dùng chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, bất ổn định. ở bài thơ này, từ ngất ngưởng được dùng với nghĩa chỉ sự khác thường, vượt lên thói thường, coi thường dư luận. Ngoài nhan đề, từ ngất ngưởng được nhắc đi nhắc lại 4 lần ở cuối các khổ thơ trở thành một biểu tượng cho một phong cách sống, thái độ sống vượt thế tục, một lối chơi ngông thách thức xung quanh trên cơ sở nhận thức rõ tài năng và nhân cách cá nhân.
4. Sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi kì quặc, lập dị đến ngất ngưởng. Người ta cưỡi ngựa đi giao du thiên hạ thì ông cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa khiến cả chủ lẫn tớ đều ngất ngưởng. Đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo “một đôi dì”. Rõ ràng trong bộ dạng từ bi, Nguyễn Công Trứ vẫn vương đầy nợ trần, vẫn đèo bòng đằng sau mấy bóng giai nhân. Cốt cách của một khách tài tử, văn nhân chính là ở đó… Đó là lối sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để ngạo đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại. Không bận tâm đến những lời khen chê, những chuyện được mất. Đó là một quan niệm sống, triết lí sống phóng khoáng tự do, thoát khỏi vòng danh lợi tầm thường. Coi sự được mất là lẽ thường tình, ông đã ra khỏi vòng danh lợi để sống thảnh thơi, tự do, tự tại để hưởng mọi lạc thú, cầm, kì, thi, tửu, giai nhân giữa cuộc đời trần thế một cách thoả thích.
Nhà thơ đã vận dụng nghệ thuật tương phản, đặt những cái đối lập nhau để thể hiện thái độ ngất ngưởng của mình.
5. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong tác phẩm là một con người có cá tính ngông, một con người đầy tự tin, yêu thích cuộc sống tự do tự tại, coi thường danh lợi. Con người ấy tự tin vào tài năng và tin tưởng vào quan điểm sống của mình nên đã rất bản lĩnh vượt lên trên thói thường cuộc đời để sống và làm điều mình thích. Nhưng dù ngất ngưởng, ngông ngạo đến đâu, ông vẫn ý thức rất rõ trách nhiệm của mình đối với cuộc đời. Vì thế, sau những phút giây cao hứng, thả mình phóng túng cùng trời đất tự do, ông vẫn không quên tự nhắc : “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Tư tưởng ấy không hề mâu thuẫn với cái ngông ngạo, ngất ngưởng của ông. Trên thực tế, Nguyễn Công Trứ là một nhà nho có trách nhiệm với đất nước. Tuy cuộc sống quan trường gặp nhiều lận đận nhưng ông vẫn luôn một lòng trung thành với triều đình. Dù ham cuộc sống tự do phóng túng nhưng ông vẫn nhiệt tình thực hiện trách nhiệm quân thần.
6. Cá tính sáng tạo của Nguyễn Công Trứ được thể hiện ở chỗ nhà thơ sử dụng khá nhiều khẩu ngữ trong bài thơ. Điều này tạo nên tính chất sống động, gần gũi, hóm hỉnh cho thể hát nói. Các từ ngữ mang tính chất khẩu ngữ: ông, tay, vào lồng, một đôi dì, nực cười, phường, kìa núi nọ phau phau mây trắng, nên dạng, chẳng… cũng… cũng góp phần khắc hoạ rõ nét tâm hòn tự do, khoáng đạt và thái độ tự tin của tác giả.
1. Trong một bài thơ khác, Nguyễn Công Trứ viết về “Chí nam nhi”:
Thông minh nhất nam tử. Trót sinh ra thời phải có chi chi, Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu. Nợ tang bồng quyết trả cho xong. Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung, Làm cho rõ tu mi nam tử. Trong vũ trụ đã đành phận sự, Phải có danh gì với núi sông. Đi không chẳng lẽ về không !
2. Khi “Thăm nhà thờ Nguyễn Công Trứ”, nhà thơ Hồng Nhu tâm sự :
Giật mình gặp một ánh nhìn Trẻ xanh như lá nổi chìm như mây Mắt cười cợt ngắm tháng ngày đi qua Lên voi xuống chó vào ra sự đời Tướng thì tướng thật cũng oai Lính thì lính cũng là nòi trời ơi Khi vui thì chạy làm người Khi buồn thì đứng giữa trời làm thông !… Một vùng Uy Viễn Tướng công, Bàn thờ nghi ngút bóng bồng khói hương. Thuỳ dương dừng lại bên đường Sững sờ hạ cháy đỏ tường vông vangNhấp nhô điệu ví gái làng Ngực như nón úp hai hàng đò đưa Tôi nay xin được theo liền Hát rằng “tứ thập niên tiền…” mà chơi… chúng tôi , . , . , , . , . . . ,
Soạn Bài Bài Ca Ngất Ngưởng Của Nguyễn Công Trứ
1. Tóm tắt nội dung bài học
Bài hát nói thể hiện tài năng của Nguyễn Công Trứ
Ngất ngưởng là cách mà Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân, phong thái của riêng ông trước cuộc sống
1.2. Nghệ thuật
Những đặc sắc về nhịp điệu, hình ảnh, từ ngữ
Các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ
2. Soạn bài Bài ca ngất ngưởng chương trình chuẩn
2.1. Soạn bài tóm tắt
Câu 1: Trong bài, từ “ngất ngưởng” được sử dụng mấy lần? Nêu nghĩa của những từ ấy?
Trong bài, từ “ngất ngưởng” được sử dụng 4 lần (không tính nhan đề)
Từ “ngất ngưởng” thứ nhất: chỉ tài năng thao lược và phong cách ngạo nghễ của Nguyễn Công Trứ khi làm quan.
Từ “ngất ngưởng” thứ hai: chỉ sự ngang tang khi tác giả vừa trả ấn quan để về quê.
Từ “ngất ngưởng” thứ ba: chỉ sự chơi ngông của tác giả khi dẫn theo các cô hầu lên chùa.
Từ “ngất ngưởng” thứ tư: chỉ sự coi thường danh lợi, những lời khen chê và cứ vui chơi cho thỏa thú vui.
Câu 2: Nguyễn Công Trứ cho rằng làm quan là bị gò bó, vậy sao ông vẫn ra làm quan? Câu 3: Vì sao Nguyễn Công Trứ tự cho mình là ngất ngưởng? Câu 4: So sánh thể hát nói và thể thơ Đường luật?
Câu 1. Trong bài, từ ” ngất ngưởng” được sử dụng 4 lần. (không tính cả nhan đề)
“Ngất ngưởng” tại triều: ông là một vị quan trí dũng có thừa nhưng chỉ để ” làm nên tay ngất ngưởng”. Sự ngất ngưởng mà ông thể hiện khi làm quan là coi việc làm quan như bị trói buộc hay giam trong lồng, cũi…
“ngất ngưởng” khi “ Đô môn giải tổ” : sống theo ý thích mà không quan tâm đến sự đàm tiếu của dư luận. Ông muốn là một người sống tự nhiên, không cao siêu như tiên, như Phật nhưng cũng không phải sống cuộc sống dung tục tầm thường.
“ngất ngưởng” khi bụt cũng nực cười: thể hiện cái “ngông”, bản lĩnh, sự tự do và phóng túng của tác giả
“Ngất ngưởng” ⇒ thể hiện bản lĩnh cá nhân, nhất là bản lĩnh này lại thể hiện trong xã hội Nho giáo đề cao lễ nghĩa, thủ tiêu cá nhân.
Câu 2: Nguyễn Công Trứ cho rằng làm quan bị gò bó nhưng ông vẫn ra làm quan vì:
Ông có tư tưởng giúp nước cứu đời
Kiêu hãnh, tự hào về sự có mặt của mình trên cõi đời
“nợ công danh” ( Phạm Ngũ Lão” : NCT từng nói ” Làm trai đứng ở trong trời đất / Phải có danh gì với nuí sông” ⇒ khẳng định vai trò lớn lao mình phải đảm nhiệm,gánh vác trong cuộc đời.
⇒ Những việc đó cho thấy sự tự tin, tự ý thức, đề cao cái tôi cá nhân của Nguyễn công Trứ.
Câu 3: Nguyễn Công Trứ cho mình là ngất ngưởng. Vì :
Ông có tài năng khác người. Ông ra làm quan nhưng chỉ coi đó như một việc đùa, thoải mái suy nghĩ, nói năng…
Có lúc ông phóng túng nhưng không trần tục để rồi Bụt cũng phải ” nực cười tay ngất ngưởng”.
Nguyễn Công Trứ đề cao, tự hào về phong cách, lối sống ngất ngưởng. Vì:
Với tư cách là một nhà nho, ông đã nhập thế tích cực, trải qua nhiều cương vị làm quan khác nhau, có mặt ở nhiều nơi trên đất nước, có những công lao đáng tự hào mà vẫn giữ đúng nghĩa vua tôi.
Mặt khác, ông cũng giữ được bản lĩnh cá nhân, giữ được cá tính của mình.
Câu 4: Thể hát nói có nhiều nét tự do, nhất là so với thơ Đường:
Thể hát nói phát triển mạnh bắt đầu từ những năm đầu thế kỉ XIX. Nhiều nhà nho, nhà thơ đã gửi gắm tâm sự của mình trong những sáng tác bằng thể hát nói. Nhờ đó, thể loại này phát triển nhanh chóng và chiếm vị trí độc tôn trong một thời gian dài, trở thành một khuynh hướng của văn học thời đại.
So với thể thơ Đường luật, hát nói phóng khoáng và tự do hơn nhiều. Hát nói có quy định về số câu, về cách chia khổ nhưn nhìn chung người viết hoàn toàn có thể phá cách để tạo nên một tác phẩm tự do về số câu, số chữ, cách gieo vần, nhịp điệu…
Sự phóng khoáng của thể thơ đặc biệt thích hợp với việc chuyển tải những quan niệm nhân sinh của những nhà nho khao khát khẳng định chính mình, sống theo mình, coi thường những ràng buộc của xã hội, những lễ nghi phong kiến.
3. Soạn bài Bài ca ngất ngưởng chương trình nâng cao
Câu 1: Nêu ấn tượng chung của anh (chị) về con người tác giả thể hiện qua bài thơ. Câu 2: Liệt kê những từ, cụm từ mang tính chất tự xưng của tác giả. Nhận xét về cách tự xưng ấy.
Những từ, cụm từ mang tính chất tự xưng của tác giả: ông Hi Văn, Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông, ông, tay kiếm cung, ông ngất ngưởng.
Thông qua các từ và cụm từ mang tính chất tự xưng này cho thấy Nguyễn Công Trứ đã ý thức rất rõ về cái tôi, về tài năng và địa vị xã hội của bản thân mình.
Câu 3: Tìm hiểu ý nghĩa của từ ngất ngưởng trong bài thơ (chú ý số lần xuất hiện cùng vị trí mà từ này đặt vào, đối chiếu nghĩa từ trong từ điển với nghĩa từ toát lên trong tác phẩm.
Tham khảo câu trả lời tại mục 2 (hướng dẫn soạn bài chương trình chuẩn) câu hỏi số 1.
Câu 4: Làm rõ phong cách sống, thái độ sống của tác giả thể hiện trong bài thơ, từ câu 9 đến câu 19. Những thủ pháp nghệ thuật gì đã được vận dụng ở đây?
Sau khi từ quan, Nguyễn Công Trứ chọn cách về sống ẩn dật tại quê nhà. Tại đây ông theo thú hát ả đào, sống phóng túng.
Những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng: phép liệt kê, điệp từ.
Câu 5: Theo anh (chị), giữa lối sống ngất ngưởng với tâm niệm “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” có gì mâu thuẫn?
Giữa lối sống ngất ngưởng và đạo vua tôi không có sự mâu thuẫn bởi khi làm quan Nguyễn Công Trứ đã làm quan và hoàn thành tốt tất cả những công việc của mình.
Câu 6: Nêu cảm nghĩ về ý vị của những khẩu ngữ mà nhà thơ đã đưa vào tác phẩm?
Những khẩu ngữ được nhà thơ đưa vào tác phẩm tạo nên sự phóng khoáng, không gò bó, thoát ra khỏi những khuôn khổ của các chuẩn mực đã có sẵn, từ đó góp phần tạo nên các ngông cho tác giả.
Câu 1: Theo anh (chị), so với bài Bài ca phong cảnh Hương Sơn, Bài ca ngất ngưởng có sự khác biệt gì về mặt từ ngữ?
Sự khác biệt về từ ngữ giữa bài Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh.
Ngôn ngữ của Bài ca ngất ngưởng vừa phù hợp với nội dung, vừa phù hợp với phong cách của Nguyễn Công Trứ. Nó phóng khoáng, tự do, có chút ngạo nghễ.
5. Một số bài văn mẫu bài thơ Bài ca ngất ngưởng
Trong một xã hội mà cá nhân không được coi trọng, cá tính bị thủ tiêu thì thái độ “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những là khí phách của ông mà còn là một giá trị nhân văn vượt thời đại. Vậy sự ngất ngưởng ấy của Nguyễn Công Trứ được biểu hiện như thế nào, mời các em cùng tham khảo một số bài văn mẫu sau:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.
Vì sao Nguyễn Công Trứ biết rằng việc làm quan là gò bó nhưng vẫn làm
trong bài ca ngất ngưởng hãy giải thích vì sao nguyễn công trứ biết rằng việc lm quan là gò bó nhưng vẫn ra lm quan ?
Phân tích Bài ca ngất ngưởng
ai giúp em làm bài phân tích bài ca ngất ngưởng với ạ
Vẻ đẹp nhân cách của nhà Nho qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát và Bài ca ngất ngưỡng
Vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính qua hai tác phẩm bài ca ngắn đi trên bãi cát và bài ca ngất ngữơng
Giá trị nhân đạo trong Bài ca ngất ngưởng
Giá trị nhân đạo trong tác phẩm bài ca ngất ngưởng là gì ?
Soạn bài Bài ca ngất ngưởng
Hướng dẫn soạn bài ” Bài ca ngất ngưởng” – Nguyễn Công Trứ
Soạn Văn Bài Ca Ngất Ngưởng Đầy Đủ Nhất Của Nguyễn Công Trứ
Trong bài soạn văn Bài ca ngất ngưởng này, Kiến Guru xin gửi đến các bạn những gợi ý để trả lời các câu hỏi tìm hiểu nội dung bài học trong SGK Ngữ văn 11, tập một. Sau khi tham khảo bài viết, mong rằng các bạn học sinh sẽ có những định hướng để chuẩn bị thật tốt phần soạn Bài ca ngất ngưởng trước khi đến lớp.
I. Hướng dẫn soạn văn Bài ca ngất ngưởng: Tác giả – Tác phẩm
Trước nhất, các bạn nên giới thiệu sơ lược về tác giả khi soạn bài Bài ca ngất ngưởng. Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) có tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông là người con của miền đất miền Trung Hà Tĩnh, tại huyện Nghi Xuân, làng Uy Viễn. Nguyễn Công Trứ vốn có tinh thần ham học từ bé nhưng lận đận trên con đường khoa cử nên mãi đến năm bốn mươi hai tuổi thì con đường công danh của ông mới hiển lộ.
Nguyễn Công Trứ có khoảng thời gian dài tận hai mươi tám năm làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Mặc dù ở chốn quan trường phải đối diện với nhiều thăng trầm nhưng tuyệt nhiên, ở Nguyễn Công Trứ vẫn toát lên khí khái cứng rắn, bình tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó và lập được nhiều chiến tích lẫy lừng, cả việc triều chính, khai khẩn đất hoàng, tu bổ chùa chiền hay chống giặc ngoại xâm.
Đến năm ông bước sang tuổi thứ bảy mươi, ông về quê sống cuộc đời riêng của mình sau hai lần cáo quan. Dù chọn về quê nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn dành sự quan tâm rất nhiệt thành dành cho đất nước và nhân dân. Bằng chứng là khi biết đến thông tin Pháp xâm lược Việt Nam, ông vẫn quyết tâm xin tòng quân diệt giặc dù tuổi đã cao.
II. Hướng dẫn soạn văn Bài ca ngất ngưởng qua gợi ý trả lời câu hỏi SGK
Bắt đầu với câu 1 trong soạn Bài ca ngất ngưởng. Trong bài thơ, ngoài nhan đề thì có 4 lần tác giả sử dụng từ “ngất ngưởng” và mỗi lần lặp lại ấy có vai trò nhất định. Trước hết, cần lí giải nghĩa của từ “ngất ngưởng”, đây vốn là từ láy tượng hình, gợi ra thế không vững, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã. Tuy từ “ngất ngưởng” mang ý nghĩa trên nhưng với mỗi lần nhắc đến, tác giả lại giúp người đọc hình dung những trạng thái “ngất ngưởng” riêng biệt. Lần thứ nhất, từ “ngất ngưởng” xuất hiện để miêu tả hình ảnh của Nguyễn Công Trứ khi có công danh vinh hiển và đảm nhiệm những trọng trách quan trọng: Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông. Lúc này, ông tỏ rõ là người có khí khái của một vị quan ngạo nghễ và đặc biệt là có tài năng thao lược. Lần thứ hai, từ “ngất ngưởng” cũng dùng để khắc hoạ hình ảnh của chính Nguyễn Công Trứ, nhưng lúc này đã ở trong hoàn cảnh khác – trở thành dân thường. Thế nhưng dù vai trò xã hội có thay đổi thì ông vẫn bộc lộ phong thái tự tại, phóng khoáng của mình.
Từ “ngất ngưởng” ở lần thứ ba trong câu “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” thêm lần nữa khẳng định cá tính ngang tàng của nhà thơ. Thế nên, mặc dù nói về thú chơi ngông của mình, Nguyễn Công Trứ tỏ rõ việc muốn khẳng định những gì thuộc về nét riêng biệt của bản thân, dù có thể nó khác biệt rất nhiều với số đông. Ở lần cuối, “ngất ngưởng” diễn tả nhân cách của Nguyễn Công Trứ trong việc xem thường vinh hoa phú quý, tĩnh tại thưởng ngoạn những sở thích bản thân mà không màng đến điều tiếng của nhân gian, thế sự. Ông không muốn bị ràng buộc, gò ép trong bất cứ điều gì.
Có thể thấy Nguyễn Công Trứ vẫn quyết định ra làm quan dù biết trước làm quan là gò bó, mất tự do bởi lẽ: làm quan chính là cách ông tạo cơ hội cho chính mình để thể tài năng và khí khái, hoài bão và khát vọng của một đấng nam nhi. Thế nên, ông đã chọn làm quan như một cách để tôn trọng khát vọng của chính mình nhưng là làm quan một cách “ngất ngưởng”, vẫn phóng túng, tự do, không gò ép mình vào khuôn phép cứng nhắc và cũng không chịu khuất phục trước những cái xấu, cái ác.
Bài thơ chính là một cách để nhà thơ bộc lộ cách nhìn nhận lại và tự đánh giá chính bản thân mình. Việc tự nhìn nhận ấy được ông thể hiện cụ thể: Thứ nhất, giọng điệu kể chuyện khảng khái, mạnh mẽ nhưng cũng đầy cá tính Thứ hai, qua cách kể chuyện, ông thể hiện sự tự ý thức về tài năng, phong cách, khí tiết của bản thân và ông tự hào vì mình là người dám nghĩ dám làm, dám sống cho mình chứ không bị chi phối bởi dư luận hay định kiến của lễ giáo hà khắc.
Thể hát nói là thể loại được khá nhiều những nhà thơ, nhà văn và chính trị gia sử dụng để bày tỏ tâm tư và giải toả nỗi niềm của mình. Chính vì những đặc điểm riêng biệt về thể loại, đặc biệt là tính chất phóng khoáng, tự do nên chuyên chở những quan niệm về lẽ sống một cách thoải mái, gần gũi với con người. Bởi những lí do trên mà thể hát nói chuyển tải ít nhiều hiệu quả những điều mà họ trăn trở và khi làm được sứ mệnh đó, nó được ưu ái và trở thành một khuynh hướng văn học. Đây là câu hỏi cuối cùng của soạn văn 11 Bài ca ngất ngưởng.
Soạn văn bài Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam
Phân tích nhân vật Liên – Hai Đứa Trẻ
Soạn văn bài Chữ Người Tử Tù
Như vậy, với những gợi ý nêu trên, mong rằng các bạn học sinh sẽ có thêm gợi ý từ Kiến Guru để soạn văn Bài ca ngất ngưởng hiệu quả!
Bạn đang xem bài viết Tuần 4. Bài Ca Ngất Ngưởng trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!