Xem Nhiều 3/2023 #️ Vai Trò Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Cơ Chế Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Hiện Nay # Top 7 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Vai Trò Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Cơ Chế Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Hiện Nay # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Vai Trò Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Cơ Chế Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Hiện Nay mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

 

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng với các đại biểu tham dự Hội nghị triển khai công tác năm 2020 của ngành kiểm sát nhân dân, ngày 27-12-2019_Nguồn: vietnamplus.vn

Về nguyên tắc, ở đâu có quyền lực nhà nước thì ở đó cần phải có giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước chính là để thúc đẩy, tăng cường năng lực vận hành các thiết chế thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, cách thức tổ chức các thiết chế giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước lại bị phụ thuộc và chi phối bởi đặc điểm của chế độ chính trị, nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước cũng như các điều kiện cụ thể về văn hóa, kinh tế, xã hội ở quốc gia đó, nhằm tạo ra bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.

Xét trên phương diện tổng thể, trên thế giới hiện nay, cơ bản tồn tại hai mô hình tổ chức nhà nước chủ yếu, hoặc là tam quyền phân lập (như Mỹ, Anh, Pháp…) hoặc là thống nhất quyền lực (Trung Quốc, Việt Nam…). Đối với mô hình quyền lực thống nhất, không phân quyền, được áp dụng trong điều kiện Đảng Cộng sản duy nhất lãnh đạo, tạo ra sự ổn định chính trị và tạo tiền đề quan trọng cho phát triển; đồng thời, có thể huy động tối đa các nguồn lực khi cần thiết. Nhưng hạn chế cơ bản của nó là nguy cơ dẫn đến việc lạm dụng quyền lực nếu không có cơ chế, thiết chế kiểm soát thích hợp.

Đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước không phải do Nhà nước tự có, mà nhân dân ủy quyền, giao cho Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước với mong muốn Nhà nước nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực giữ gìn độc lập tự chủ, bảo đảm cho nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc.

Tuy nhiên, theo quy luật, quyền lực nhà nước có sự vận động theo xu hướng tự phủ định mình, C.Mác gọi hiện tượng này là “sự tha hóa của quyền lực nhà nước”. Sự tha hóa quyền lực biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, như lạm quyền, lộng quyền, tùy tiện, thiếu trách nhiệm, lợi dụng quyền lực (trục lợi từ quyền lực), tiếm quyền, tham quyền cố vị, quan liêu, tập trung quyền lực quá mức (độc đoán, chuyên quyền) hoặc phân tán quyền lực… Do đó, để khắc chế việc tha hóa quyền lực, thì việc tổ chức quyền lực nhà nước phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, trong đó quy định rõ sự phân công, phân cấp, trao quyền đi đôi với trách nhiệm và cơ chế giám sát, kiểm soát các quyền đó.

Theo V.I.Lê-nin, pháp chế phải thống nhất, pháp chế không thống nhất thì không thể tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng. Yếu tố cản trở mạnh mẽ, trực tiếp nhất đến sự thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa là bệnh cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa - hàng rào tệ hại ngăn cản việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn đấu tranh chống lại một cách có hiệu quả chủ nghĩa cục bộ địa phương, nhất thiết phải thành lập viện kiểm sát.

V.I.Lê-nin cho rằng, viện kiểm sát có quyền và bổn phận chỉ làm một công việc là làm thế nào cho trong toàn nước cộng hòa có một sự nhận thức thật sự nhất trí về pháp chế, dù ở các địa phương có những đặc điểm và ảnh hưởng như thế nào đi chăng nữa. Việc tổ chức cơ quan kiểm soát trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là vấn đề cụ thể của riêng nước Nga trong những năm 20 của thế kỷ XX mà đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong điều kiện một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, với trình độ phát triển kinh tế chưa cao, chủ nghĩa cục bộ địa phương có điều kiện nảy nở. Trong điều kiện như vậy, đòi hỏi phải có pháp chế thống nhất, phải tổ chức viện kiểm sát để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Hiến pháp năm 2013 của nước ta tiếp tục ghi nhận nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước “có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây cũng là mục tiêu mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã đặt ra đến năm 2020 là phải “hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực”.

Viện kiểm sát nhân dân ngay từ khi ra đời theo Hiến pháp năm 1959 (tiền thân là Viện Công tố) đã mang một “sứ mệnh đặc biệt” được ghi trong Đề cương báo cáo về Hiến pháp sửa đổi (sửa Hiến pháp 1946), cụ thể: Viện kiểm sát khác với Viện Công tố ở chỗ, Viện Công tố chỉ làm việc công tố trước tòa, mà viện kiểm sát thì còn làm việc kiểm sát chung, tức là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Viện kiểm sát nhân dân chỉ chịu sự lãnh đạo của ngành dọc, chứ không chịu sự lãnh đạo ngang của cơ quan hành chính đồng cấp; viện trưởng viện kiểm sát và kiểm sát viên địa phương đều do cấp trên bổ nhiệm, chứ không do hội đồng nhân dân bầu; nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 5 năm (1). Những tư tưởng trên cũng đã được quy định tại Điều 105 Hiến pháp 1959. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Điều này đánh dấu sự ra đời một hệ thống cơ quan từ Trung ương xuống địa phương theo ngành dọc trực thuộc Quốc hội, không trực thuộc chính quyền địa phương cùng cấp. Quy định này dựa trên cơ sở lý luận của V.I.Lê-nin khi đề xướng thành lập viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong bức thư “Bàn về chế độ trực thuộc song trùng và pháp chế” gửi đồng chí Xtalin để chuyển đến Bộ Chính trị, V.I.Lênin cho rằng, để viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng bảo đảm pháp chế thống nhất, chống lại có hiệu quả chủ nghĩa cục bộ địa phương thì viện kiểm sát chỉ trực thuộc trung ương và có quyền kháng nghị đối với bất cứ quyết định nào của cơ quan chính quyền địa phương về phương diện pháp chế.

Chính vì vậy, ngay sau khi được Hiến pháp năm 1959 ghi nhận và cụ thể hóa bằng Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân được quy định là một cơ quan nhà nước độc lập, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về tổ chức và hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân (Điều 105). Đây chính là nền tảng pháp lý quan trọng thể hiện sự ra đời của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân nhằm thực hiện một chức năng mới của Nhà nước là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và công dân theo quy định của pháp luật; đồng thời, cũng đánh dấu sự ra đời của một “thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước” do Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân – giao cho để thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh và thống nhất, pháp chế dân chủ được giữ vững.

Để hệ thống Viện kiểm sát nhân dân hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, ngay từ ngày đầu thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến công tác kiểm sát bằng việc chỉ trong thời gian ngắn 2 năm đầu từ tháng 12-1960 đến tháng 2-1963, Ban Bí thư đã tổ chức hội nghị chuyên đề công tác kiểm sát, ban hành Thông báo số 06-TB/TW ngày 6-12-1960 và Thông tri số 13-TT/TW ngày 12-12-1960 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo công tác kiểm sát. Đặc biệt, chỉ một năm sau, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 1-2-1963, về công tác kiểm sát. Nội dung chỉ đạo trọng tâm yêu cầu ngành kiểm sát phải làm tốt công tác kiểm sát tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững… Như vậy, công tác kiểm sát có vị trí và tác dụng trọng yếu trong bộ máy nhà nước.

Đồng thời, cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn hệ thống viện kiểm sát các cấp và hoàn thiện thể chế chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, nhất là người đứng đầu và đã cử đồng chí Hoàng Quốc Việt, người cán bộ tiền bối dày dạn kinh nghiệm, có uy tín cao, sang làm người đứng đầu ngành kiểm sát. Đến năm 1976, khi đồng chí Hoàng Quốc Việt thôi làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đảng và Nhà nước cử đồng chí Trần Hữu Dực, Phó Thủ tướng Chính phủ sang làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân tối cao. Điều này càng minh chứng cho tầm quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là một thiết chế kiểm sát việc tuân theo pháp luật, hay nói cách khác là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước.

Vào đầu những năm 2000, để tạo sự năng động, tự chủ của các thành phần kinh tế, chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (gọi tắt là kiểm sát chung) của viện kiểm sát, vốn được xem là công cụ quan trọng để tham gia kiểm soát quyền lực và bảo đảm pháp chế thống nhất trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa thu hẹp, chỉ còn kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Đến nay, trải qua lịch sử 60 năm hình thành và phát triển, với tư cách là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập trong bộ máy nhà nước, chỉ có hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm góp phần bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Có thể nói, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là rất rộng, có nhiều cơ quan, thiết chế tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay.

Theo quy định tại Điều 107, Điều 108 và Điều 109 Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế hiến định trong bộ máy nhà nước, ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Theo quy định tại Điều 4, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã nhấn mạnh: “Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật”.

 

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân đọc bản luận tội và đề nghị mức án đối với các bị cáo trong một phiên tòa sơ thẩm _Ảnh: TTXVN

Như vậy, thực chất đây là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát đối với các chủ thể thực hiện, tham gia các hoạt động tư pháp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm các yêu cầu sau:

Một là, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Hai là, việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ.

Ba là, bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh.

Bốn là, mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Để bảo đảm bốn yêu cầu trên, Nhà nước đã trao cho Viện kiểm sát nhân dân những nhiệm vụ và quyền hạn: (1) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp. (2) Trực tiếp kiểm sát, xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. (3) Xử lý vi phạm, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. (4) Kháng nghị bản án, quyết định của tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp. (5) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. (6) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.

Đặc biệt, để bảo đảm cho hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp cũng như việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố hoạt động hiệu lực và hiệu quả, góp phần bảo đảm cho hoạt động tư pháp trong sạch, nghiêm minh và tuân thủ pháp luật, thì Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự đã giao cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tội tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. So với quy định trước đây, thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay đã được mở rộng tăng thêm (từ 14 tội danh lên 38 tội danh quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015). Theo đó, đối tượng, phạm vi thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao tăng lên nhiều, đến cấp xã, phường, thị trấn và những người tiến hành các hoạt động tư pháp phạm tội thuộc 2 chương nêu trên (giám định viên, luật sư…). Như vậy, xét trên phương diện phòng ngừa tội phạm, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực sự là cơ chế hữu hiệu kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp.

Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế đặc trưng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, có vai trò hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước ta trước đây cũng như hiện nay. Ngoài chức năng công tố, viện kiểm sát còn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực chất, đây là thiết chế kiểm soát quyền lực trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi viện kiểm sát chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, đã tạo ra khoảng trống kiểm sát, nhất là việc nảy sinh hiện tượng cục bộ ngành, cục bộ địa phương trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật, là một trong những nguyên nhân phát sinh vi phạm, tội phạm, cản trở việc thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đây là nội dung cần tiếp tục nghiên cứu để tạo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu lực và hiệu quả hơn trong quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta./.

(1) Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 29.

Theo BÙI MẠNH CƯỜNG/Tạp chí Cộng sản

Vai Trò Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Việc Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền

Chức năng quan trọng có tính bao trùm của Viện Kiểm sát nhân dân là kiểm sát chung – kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các cấp chính quyền từ các bộ trở xuống các địa phương.

Thiết chế Viện Kiểm sát là một thiết chế của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, mà đứng đầu là Liên xô, khi mà họ thấy cần giám sát theo nguyên tắc không phải là song trùng trực thuộc, mà chỉ trực thuộc một chiều của cấp trên, để bắt các chủ thể, nhất là địa phương và cấp dưới phải luôn luôn tuân theo pháp luật, quyết định và cũng như ý chí của cấp trên – trung ương. Viện kiểm sát như là một thiết chế đại diện cho cấp trên – trung ương, buộc cấp dưới phải tuân thủ mệnh lệnh của cấp trên và quyết định của Viện Kiểm sát mặc dù chỉ là kiến nghị, nhưng bao giờ cũng phải được thi hành, buộc các cấp chính quyền địa phương và các ban, ngành trực thuộc cấp dưới, kể cả công dân phải chấm dứt hoặc thay đổi ngay các hoạt động không phù hợp với các quyết định và luật của các cơ quan Nhà nước cấp trên.

Mặc dù quyết định của Viện Kiểm sát chỉ được dừng ở dạng kiến nghị, nhưng bao giờ cũng phải được các cơ quan khác thực thi. Chính vì lẽ đó chỉ cùng một chữ “kiến nghị”, nhưng có lúc là cái cớ cho bị cáo Phạm Sỹ Chiến và Luật sư của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố trắng án cho mình, ngược lại lúc thì Viện Kiểm sát và Hội đồng xét xử lại viện ra rằng, đó lại là cơ sở của lời buộc tội, và kết tội đối với bị cáo nói trên.

Vì những lẽ đó khi mới ra đời chức năng quan trọng có tính bao trùm của Viện Kiểm sát nhân dân là kiểm sát chung – kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của các cấp chính quyền từ các bộ trở xuống các địa phương. Trên cơ sở của việc thực hiện chức năng kiểm sát chung, mà Viện kiểm sát có thêm chức năng phụ là công tố buộc tội. Sang đến thời kỳ hiện nay của công cuộc đổi mới và nhận thức lại chu rnghĩa xã hội, chức năng kiểm sát chung theo hiến pháp hiện hành không còn, Viện kiểm sát chỉ còn lại chức năng buộc tội và kiểm sát hoạt động tư pháp như phần trên đã nêu.

Trong tinh thần của việc xây dựng nhà nước pháp quyền , Viện kiểm sát vẫn cần phải tiếp tục đổi mới. Đó là việc tiếp tục hoàn thiện lại thể chế Viện Kiểm sát theo xu hướng phân công rõ ràng giữa 3 quyền: lập pháp, hành pháp, và tư pháp.Trên tinh thần đó Viện Kiểm sát cần phải hoàn thành tốt chức năng cần có của mình là công tố. Để là được những đòi hỏi trên Viện Kiểm sát cần phải tiếp tục đổi mới theo 2 hướng sau:

1. Để có một lời buộc tội chính xác đồng thời phải nhanh chóng với mục đích không oan người vô tội, thì các cơ quan điều tra phải trực thuộc trực tiếp Viện Kiểm sát – cơ quan buộc tội. Hay nói một cách khác các cơ quan điều tra tội phạm phải trực thuộc Viện Kiểm sát;

2. Viện Kiểm sát không nên kiêm chức năng kiểm sát xét xử, mà chỉ thực hiện chức năng buộc tội – công tố.

Vấn đề thứ nhất, phải nhập chức năng điều tra các tội phạm vào chức năng công tố buộc tội của Viện kiểm sát, hay nói một cách khác chức năng buộc tội phải gắn chặt với chức năng điều tra không tách rời, làm cho các hoạt động của các cơ quan điều tra phải trực thuộc trực tiếp cơ quan tiến hành buộc tội.

Hoạt động điều tra là hoạt động quan trọng bậc nhất của tố tụng. Khâu đầu tiên đồng thời cũng là khâu có tính quyết định nhất trong toàn bộ quy trình của hoạt động tư pháp. Vì rằng tất cả các hoạt động công tố, xét xử như thế nào đi chăng nữa, cũng là những hoạt động tiếp theo để nhằm mục đích tìm ra tính xác thực kết quả của các hoạt động điều tra, mà giai đoạn kết – hệ quả của hoạt động này là công tố – buộc tội hay là không buộc tội (đình chỉ hoạt động điều tra tội phạm). Vì vậy hoạt động điều tra rất gắn và hoặc ít nhất là dưới sự chỉ đạo trực tiếp của hoạt động buộc tội. Nếu không điều tra, hoặc trong trường hợp đặc biệt không chỉ đạo hoạt động điều tra, thì công tố uỷ viên không có khả năng kết được tội. Ý rằng muốn kết được tội thì phải là người rất am hiểu tội phạm nhất. Anh không trực tiếp điều tra hoặc anh là cơ quan điều tra thì làm sao anh nắm được mọi ngóc ngách của tội phạm mà buộc?

Hiện nay người tiến hành buộc tội trên các phiên toà không là người trực tiếp, hoặc không trực tiếp lãnh đạo người điều tra vụ án. Cơ quan tiến hành điều tra không phải là cơ quan buộc tội. Tức là điều tra và buộc tội không cùng một chủ thể. Chắc chắn rằng giữa các chủ thể không ít những mâu thuẫn xẩy ra trong quá trình tố tụng, không có sự thống nhất giữa điều tra và công tố. Trong hoạt động chính trị cũng như quản lý Nhà nước để hạn chế tình trạng lạm dụng quyền lực, người ta đã dùng quyền lực để hạn chế quyền lực, theo kiểu tham vọng, phải kìm chế bằng tham vọng,1 mà không bằng một con đường nào khác, phải chia các công đoạn của một hoạt động quản lý, hoạt động chính trị ra một số các công đoạn nhỏ và giao cho các chủ thể khác nhau cùng đảm nhiệm, và có thể dùng công đoạn này kiềm chế, thậm chí là đối trọng công đoạn kia. Nhưng trong hoạt động điều tra và buộc tội thì lại là hoàn toàn khác. Mặc dù chúng là hai công đoạn đấy nhưng vì phải đảm bảo độ chính xác và nhanh chóng cần phải nhập chúng lại. Bởi lẽ rằng cả hai hoạt động ấy đều cần đến một lời cáo trạng chính xác và nhanh chóng, cùng chưa là kết quả chính thức, chúng đều phải được kiểm nghiệm lại tại Hội đồng xét xử – Tòa án.

Trong trường hợp của những vụ án phức tạp, người tiến hành điều tra cần chuyên môn nghiệp vụ, thì hoạt động điều tra này phải được đặt dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của kiểm sát viên thực hiện quyền công tố của vụ án.

Việc nhập vào như vậy, chắc chắn việc điều tra, buộc tội sẽ chính xác hơn, vì không phải thông qua khâu trung gian, và sẽ nhanh chóng hơn. Vấn đề thời gian, vấn đề chính xác bao giờ cũng là đáng quan tâm hiện nay của bất kể hệ thống xét xử nào. Những hoạt động này luôn luôn mang trong mình nó tính hành pháp, và phải đặc biệt thống nhất 100% giữa điều tra và lời buộc tội.

Không có lý gì mà Bộ trưởng Tư pháp của Hợp chúng Mỹ châu lại là Tổng Chưởng lý (như Viện trưởng Viện Kiểm sát tối cao của nhà nước ta) và Cục Điều tra liên bang (FBI) là một bộ phận của Bộ này.

Thực tế hiện nay các hoạt động điều tra của Việt Nam do các cơ quan trực thuộc Bộ Công an thực hiện, hoạt động công tố thì lại thuộc chức năng của Viện Kiểm sát làm cho không ít trường hợp công tố uỷ viên không biết được mọi chi tiết của tội phạm, vì họ phải buộc tội thông qua các kết luận các cơ quan điều tra. Mặc dù pháp luật hiện hành vẫn có quy định hoạt động điều tra phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của Viện Kiểm sát. Nhưng sự kiểm tra, giám sát này không dễ gì thực hiện, chỉ bởi một lẽ rằng, các cơ quan điều tra không trực thuộc Viện Kiểm sát.

Vấn đề thứ hai, là vấn đề kiểm sát xét xử. Viện kiểm sát vừa là chủ thể buộc tội, một bên của tố tụng, vừa là lại đứng ra kiểm sát việc xét xử. Thật là chẳng khác nào ‘vừa đá bóng vừa thổi còi’. Câu chuyện “vừa đá bóng vừa thổi còi”, trong công cuộc đổi mới, và nhận thức lại giai đoạn đầu tiên của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã được thải hồi ở nhiều tổ chức, nhiều cơ quan. Nhưng cho đến nay vấn này trong hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân vẫn còn là hiện hữu.

Viện Kiểm sát một thiết chế đặc thù của hệ thống xã hội chủ nghĩa của hệ thống bao cấp tập trung. Viện kiểm sát có chức năng căn bản là kiểm sát chung, sau đấy là kiểm sát tư pháp: kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát việc thi hành án. Từ chức năng cơ bản này mới sinh ra chức năng buộc tội. Mà đã là lời buộc tội (trong bản cáo trạng) thì bao giờ cũng là đúng, Toà án chỉ được tuyên án theo cáo trạng của Viện kiểm sát. Cũng từ đây không những Viện Kiểm sát trong khi xét xử giữ quyền công tố buộc tội, mà còn có cả quyền giám sát hoạt động xét xử của chính phiên toà, mà Viện Kiểm sát đang đóng vai trò là người buộc tội.

Trong các quy phạm Hiến pháp của Nga, cũng như của chúng ta, chức năng công tố không được ghi nhận. Mãi đến Hiến pháp năm 1980 và của Hiến pháp năm 1992 chức năng công tố buộc tội mới được ghi nhận cho Viện Kiểm sát, nhưng cũng được đặt sau chức năng kiểm sát chung. Hay nói một cách khác buộc tội – công tố là chức năng đi kèm theo, phái sinh từ chức năng kiểm sát chung.

Sau bao nhiêu năm trăn trở, nay theo quy định Hiến pháp sửa đổi, Viện Kiểm sát không còn chức năng cơ bản của nó nữa là kiểm sát chung – mà chúng ta gọi chủ yếu là kiểm sát văn bản. Cho đến nay không ít người trong Viện Kiểm sát vẫn còn là nuối tiếc sự mất đi chức năng này của Viẹn Kiểm sát. Chức năng kiểm sát chung bị mất đi không chỉ giản đơn bởi lẽ rằng, cần phải tâp chung cho việc hoàn thành chức năng buộc tội của Viện Kiểm sát, mà chủ yếu theo tinh thần của nhà nước pháp quyền sự đúng – sai theo kết luận của Viện Kiểm sát không được kiểm nghiệm bằng hoạt động xét xử – tài phán. Cũng nên được nhấn mạnh, theo quy định của Hiến pháp này, chức năng công tố lại trở thành chức năng chính, và chức năng kiểm sát tư pháp, còn rơi lại, lại được lật ngược thành chức năng đi kèm. Việc “vừa đá bóng vừa thổi còi” vẫn cứ được quy định, chỉ Điều 105 của Hiến pháp năm 1959 quy đinh: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương , các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Điều 138 của Hiến pháp 1980: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hôi chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng , các cơ quan chính quyền địa phương , tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân , các nhân viên nhà nước và công dân , thực hành quyền công tố , đảm bảo pháp luật được cháp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Như những điều phân tích ở phần trên đổi mới việc tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân theo tinh thần xây dựng nhà nước pháp quyền là một trong những công việc cấp bách hiện nay, một trong những việc đó phải nhanh chóng chuyển đổi Viện Kiểm sát thành Viện Công tố với chức năng duy nhất là thay mặt cho nhà nước thực hiện chức năng buộc tội. Sau khi đã loại bỏ cả chức năng kiểm sát xét xử, kiểm sát điều tra và kiểm sát việc thi hành án, thì Viện chỉ còn lại chức năng công tố – buộc tội, thì Viện Công tố sẽ trực thuộc cành quyền lực nào lập pháp hay là hành pháp?

Công tố là hoạt động của hành pháp và Viện Công tố phải trực thuộc Hành pháp – Chính phủ, mà không thể là một quyền đứng riêng rẽ giữa lập pháp, tư pháp và hành pháp như hiện nay.

Viện Kiểm sát nhân dân là một thiết chế tương đối đặc biệt của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa và trong đó có ở nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , được tổ chức ra từ quy định của Hiến pháp năm 1959, theo nguyên tắc thống nhất chỉ trực thuộc cấp trên của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, với hai chức năng cơ bản kiểm sát việc tuân thủ các quy phạm pháp luật và công tố thay đổi nhau lúc đậm lúc nhạt tùy theo thời gian tương ứng với yêu cầu của công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, càng ngày càng có xu hướng tập trung vào chức năng công tố buộc tội.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh – Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế – Trường Đại học Hòa Bình

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

1.2. Vị Trí, Vai Trò Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Bộ Máy Nhà Nước

Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập trong Hiến pháp. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Q uyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

– Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự là các cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, hoặc trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội không họp.

Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ương đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

– Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

– Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. , góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chức Năng Thực Hiện Quyền Công Tố Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân

Chức năng thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Bản chất, nội dung, phạm vi, ý nghĩa công tác thực hành quyền công tố.

Tại Khoản 1, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng hiến định Viện kiểm sát nhân dân.

, thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về , kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự (Khoản 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014).

Trong quá trình tố tụng hình sự, hoạt động thực hành quyền công tố bao gồm:

– Khởi tố bị can: Để có được quyết định khởi tố bị can, cơ quan công tố phải khởi tố vụ án và điều tra, xác minh.

– Truy tố bị can ra trước tòa án trên cơ sở kết quả điều tra vụ án và chứng minh được người phạm tội.

– Buộc tội bị cáo và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa bằng cách công bố bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, trình bày lời luận tội và tranh luận trước phiên tòa sơ thẩm; nếu vụ án bị hoặc kháng nghị thì có mặt để tham gia xét hỏi và trình bày lời kết luận về kháng cáo, kháng nghị trước phiên tòa phúc thẩm.

Tại Khoản 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 xác định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố của mình trong những lĩnh vực sau:

– Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

– Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm.

– Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.

– Điều tra một số loại tội phạm

– Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.

Từ bản chất, nội dung, phạm vị hoạt động thực hành quyền công tố nêu trên có thể thấy công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm:

– Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

– Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, , bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật.

– Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.

Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 hoặc gửi thư về địa chỉ email: lienhe@luatduonggia.vn.

THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA LUẬT DƯƠNG GIA:

Bạn đang xem bài viết Vai Trò Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Cơ Chế Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Hiện Nay trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!