Xem Nhiều 3/2023 #️ Vai Trò, Vị Trí Của Quốc Hội Việt Nam # Top 5 Trend | Theindochinaproject.com

Xem Nhiều 3/2023 # Vai Trò, Vị Trí Của Quốc Hội Việt Nam # Top 5 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Vai Trò, Vị Trí Của Quốc Hội Việt Nam mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Quang cảnh kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII.

Hỏi: Quốc hội Việt Nam có vai trò, vị trí như thế nào trong bộ máy nhà nước ta?

Trả lời: Trong bộ máy Nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Hỏi: Tại sao nói Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân?

Trả lời: Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, bởi vì theo quy định của Hiến pháp ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Quốc hội do nhân dân bầu ra, là cơ quan Nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân. Chỉ Quốc hội mới có quyền thể chế ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành luật, thành mục đích chung mang tính chất bắt buộc phải tuân thủ đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân được thể hiện ở các mặt sau đây:

– Quốc hội là cơ quan Nhà nước do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

– Quốc hội gồm các đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân. Quốc hội là sự thể hiện rõ nhất khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện cho trí tuệ của nhân dân cả nước.

– Quốc hội có nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.

Hỏi: Quốc hội có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn gì?

Trả lời: Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội thì Quốc hội nước ta có 3 chức năng chính là: Thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của đất nước;

4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước;

5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia;

8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

11. Quyết định đại xá;

12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước;

13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;

15. Quyết định trưng cầu ý dân.

(Theo tài liệu hỏi – đáp về bầu cử của Hội đồng bầu cử Quốc gia)(còn nữa)

Vị Trí, Vai Trò, Nhiệm Vụ Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam

”Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới”.

”Thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp bao gồm tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. (Điều 1, Chương1, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam)’.

”Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động’.

Khi phối hợp và thống nhất hành động, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình . (Trích điều 5 Chương II Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).

Vị Trí Vai Trò Của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Trong Hệ Thống Chính Trị Và Đời Sống Xã Hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận.

Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân…” điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…” Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường và tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình đó còn có sự khá nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội, các tôn giáo… Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã hội đang đặt ra cho công tác vận động quần chúng nói chung và công tác Mặt trận nói riêng những vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc tập hợp các lực lượng yêu nước đặt ra một cách bức bách. Mặt khác các thế lực thù địch đangthực hiện chiến lược diễn biến hoà bình và nhiều âm mưu chia rẽ khối đại đoà kết dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp Cách mạng của nhân dân ta.

Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một sự nghiệp đầy khó khăn gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể thành viên càng quan trọng. Nâng cao vai trò, tác dụng của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

NGUYÊN TẮC LÀM VIỆC CỦA MẶT TRẬN

Mặt trận Dân tộc thống nhất được tổ chức trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng về địa vị và độc lập về tổ chức. Quan hệ giữa các thành viên trong Mặt trận được thực hiện theo các nguyên tắc:

Hiệp thương dân chủ,

Hợp tác bình đẳng,

Đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau,

Phối hợp và thống nhất hành động.

MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN VÀ CÁC THÀNH VIÊN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 1- Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận có một đặc điểm đáng chú ý: Đảng vừa là thànhviên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận

Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng tham gia uỷ ban Mặt trận có trách nhiệm sinh hoạt đầy đủ thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Cấp uỷ Đảng phải giáo dục đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình hành động chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuậnvà tích cực tham gia công tácMặt trận tại khu dân cư

Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi íh chính đáng của các tầng lớp nhân dân: Đảng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

2- Mối quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền:

Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận thông qua Đảng đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp uỷ Đảng tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới thiệu những Đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân, có năng lực làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng điều lệ. Đảng lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên, sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền. Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận; Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ Đảng viên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng. Mặt trận có nhiệm vụ truyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước là yếu tố cực kỳ quan trọng bảo đảm sự vững mạnh của chế độ.

Quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền là quan hệ hợp tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Quyền hạn của Mặt trận đã được Hiến pháp và pháp luật qui định Mặt trận hoạt động theo pháp luật và qui chế làm việc đã được thoả thuận giữa Mặt trận và chính quyền.

Nhà nước dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể để phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước. Đó cũng là sức mạnh của bản thân Nhà nước.

Trong quá trình ra các quyết định về quản lý và điều hành, Nhà nước các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước căn cứ qui chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận. Nhà nước cần tiếp tục thể chế hoá quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội và xây dựng cuộc sống tự quản của dân.

Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đánh của nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dânđẩy mạnh phong trào hành động thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế xã hội.

Một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy Nhà nước hiện nay là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. để Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trịcủa chính quyền nhân dân, sự phối hợp giữa Mặt trận với Nhà nước phải như nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: ” Thực hiện thành nền nếp iệc đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận về những quyết định chủ trương lớn” ngày một chặt chẽ và cụ thể hơn.

Quốc Hội Việt Nam Giữ Vị Trí Pháp Lý Quan Trọng Như Thế Nào?

Quốc hội Việt Nam giữ vị trí pháp lý quan trọng như thế nào?

Vị trí pháp lý của Quốc hội được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, được gọi là vị trí pháp lý của Quốc hội.

Vị trí pháp lý của Quốc hội được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, được gọi là vị trí pháp lý của Quốc hội. Vị trí pháp lý là một thuật ngữ chuyên ngành luật học, dùng để khắc hoạ lên một cách khái quát nhất mô hình cơ quan Nhà nước, và mối quan hệ giữa cơ quan Nhà nước đó với các cơ quan Nhà nước khác trong toàn bộ hệ thống các cơ quan Nhà nước, thông qua các quy định của pháp luật. Hay nói một cách nôm na rằng bằng quy định của pháp luật cơ quan Nhà nước được nói đến là gì, nằm ở đâu, trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, là một phương tiện để chỉ mặt gọi tên cơ quan Nhà nước, một thiết chế xã hội, thay vì chúng không là một thể nhân (con người) cụ thể.

Vì vậy, bất kỳ một quy định nào của pháp luật nói về cơ quan Nhà nước dù ít, dù nhiều đều có tác dụng nói lên vị trí pháp lý của chúng. Tất cả các quy phạm pháp luật quy định cách thức thành lập, thẩm quyền, cách thức hoạt động, mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước khác, các loại văn bản được phép ban hành… đều góp phần khắc hoạ lên vị trí pháp lý của cơ quan Nhà nước. Trong tất cả các quy phạm nói về các cơ quan Nhà nước Trung ương, cũng như các cơ quan Nhà nước ở địa phương các quy định Hiến pháp nói về cơ quan Nhà nước là quy định nói rõ nhất vị trí pháp lý của cơ quan Nhà nước. Do đó theo một logic thông thường mỗi một khi quy định về một cơ quan nào, điều đầu tiên Hiến pháp đều cho ta định nghĩa khái quát nhất về cơ quan Nhà nước đó. Đây chính là điều khoản nói rõ nhất vị trí pháp lý của cơ quan Nhà nước.

Trong bộ máy Nhà nước Việt nam, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vị trí đó được xác định trên cơ sở quy định của Hiến pháp. Ở nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình bằng hai hình thức cơ bản trực tiếp. Hình thức gián tiếp và trực tiếp tạo nên nền dân chủ trực tiếp. Hình thức gián tiếp tạo nên nền dân chủ đại diện. Trong điều kiện hiện nay, dân chủ đại diện đóng một vai trò quan trọng. Nhân dân thực hiện nền dân chủ gián tiếp bằng cách thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội, vì vậy thể hiện tính đại diện nhân dân và tính quyền lực Nhà nước cao nhất trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ bộ máy Nhà nước.

Về cách thức thành lập, Quốc hội là cơ quan Nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bầu cử đại biểu Quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả nước.

Về cơ cấu thành phần đại biểu, Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ. Quốc hội là sự thể hiện rõ nhất khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho trí tuệ của đất nước.

Về chức năng, nhiệm vụ, Quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân cả nước.

Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội mới có đủ thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, các vấn đề trọng đại của đất nước.

Sở dĩ như vậy, vì nhà nước ta là một nhà nước dân chủ tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa là người chủ của quyền lực Nhà nước là nhân dân. Muốn sử dụng quyền lực của mình, nhân dân phải được tổ chức lại thành Nhà nước, Quốc hội là cơ quan Nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí Nhà nước, thành luật, thành các quy định chung mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế Nhà nước đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.

Với tính chất là cơ quan quyền lực cao nhất trong hệ thống các cơ quan Nhà nước của Nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan được Hiến pháp dành cho vị trí trang trọng nhất, cơ quan đầu tiên trong toàn bộ hệ thống các cơ quan Nhà nước được Hiến pháp quy định: Chương VI và điều đầu tiên của chương này. Điều 83 là điều nói rõ nhất vị trí pháp lý của Quốc hội:

“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”.

Như vậy, Quốc hội chiếm một vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không một cơ quan Nhà nước nào trong bộ máy các cơ quan Nhà nước của ta có được một vị trí như vậy. Sở dĩ Quốc hội có một địa vị như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc bầu ra một cách trực tiếp. Với cách thức thành lập này cộng với quan điểm “Tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cơ quan đại diện do nhân dân toàn quốc bầu ra”, là cơ sở cho Quốc hội có quyền lực Nhà nước cao nhất ở nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Việc Hiến pháp quy định như nêu trên cũng là để nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đúng theo quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê nin về một nhà nước kiểu mới khác với các Nhà nước trước đây. Và chính đây cũng là đặc điểm nói lên sự khác nhau giữa mô hình tổ chức Nhà nước ta, Nhà nước xã hội chủ nghĩa với các mô hình tổ chức Nhà nước khác nhau của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Cũng nên nói rõ một cách thẳng thắn rằng cơ quan lập pháp trong nhà nước tư sản với những tên gọi hết sức khác khau, đều do nhân dân trực tiếp, gián tiếp bầu ra và đã từng được pháp luật tư sản tuyên bố là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Lẽ đương nhiên khái niệm “nhân dân” ở đây thuần khiết chỉ là những người có của, không phải “dân đen”, những người không có của, không có sở hữu. Nhưng, trải qua thời gian phát triển của chế độ tư bản, Quốc hội đã bị đẩy xuống thứ yếu hơn so với các cơ quan Nhà nước khác. Chế độ đại nghị của chủ nghĩa tư bản đã rơi vào tình trạng khủng hoảng.

Chính vì lẽ đó, Lênin trong tác phẩm viết trước Cách mạng tháng Mười, khi chưa có Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định, trong bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn phải có nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhưng ở đó bộ máy Nhà nước không còn phân quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Và ở đó các nghị sĩ không còn những đặc quyền, đặc lợi nữa và phải chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình. Một khi không có tín nhiệm nữa thì bị cử tri bãi miễn, nghị viện vẫn còn nhưng không còn chế độ đại nghị (Chế độ đại nghị là chế độ mà ở đó, Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực: Quyền lực lập pháp; Quyền lực hành pháp; Quyền lực tư pháp. Trong đó quyền lực lập pháp của Nghị viện có ưu thế hơn hẳn, và những thành viên của nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra có nhiều đặc quyền đặc lợi, nhưng lại không chịu trách nhiệm trước cử tri).

Chính vì tầm quan trọng như vậy, cho nên ngay từ những ngày đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chủ tịch đã yêu cầu Chính phủ lâm thời phải tiến hành ngay việc bầu đại biểu Quốc hội càng sớm càng tốt.

Theo quan điểm cuả chủ nghĩa Mác-Lê nin, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra, bao gồm các đại biểu không ăn lương, không hoạt động chuyên nghiệp, và phải chịu trách nhiệm trước cử tri, có toàn quyền giải quyết mọi vấn đề của Nhà nước.

Trong quá trình tổ chức Nhà nước của chúng ta từ 1946 cho đến hiện nay, vẫn tuân thủ theo nguyên tắc này. Vì chính nguyên tắc này thể hiện rõ nhất bản chất của Nhà nước ta, một Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong điều kiện hiện nay, cơ chế thị trường, với sự nhận thức lại quy luật khách quan của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, Quốc hội theo tinh thần mới phải tập trung vào công tác lập pháp. Thông qua chức năng lập pháp mà Quốc hội thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác của mình. Tất cả quyền lực Nhà nước tập trung vào trong tay Quốc hội, nhưng có sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan: Quốc hội lập pháp; Chính phủ hành pháp và Toà án là cơ quan xét xử.

Thông qua chức năng lập pháp của mình mà Quốc hội đảm đương các nhiệm vụ khác với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao trong hệ thống các cơ quan tạo thành bộ máy Nhà nước. Thông qua việc thực hiện các đạo luật mà Quốc hội quyết định các chủ trương chính sách, những vấn đề mang tính chất quốc kế dân sinh, dưới hình thức luật pháp mà Quốc hội quy định các nguyên tắc và tổ chức hoạt động bộ máy Nhà nước.

Thạc sỹ Phạm Ngọc Minh – Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp

Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường, Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng đài tư vấn 19006198.

Bạn đang xem bài viết Vai Trò, Vị Trí Của Quốc Hội Việt Nam trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!