Cập nhật thông tin chi tiết về Xây Dựng “Trường Học Thông Minh” Ở Đông Triều mới nhất trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Hiểu một cách đơn giản thì mô hình “Trường học thông minh” sẽ giúp Ban Giám hiệu nhà trường quản lý chặt chẽ được từng giáo viên, từng lớp học bằng một phần mềm quản lý học tập thông qua hệ thống internet. Còn với “Lớp học thông minh” thì từ bục giảng thông minh, giáo viên có thể quản lý bài học của học sinh, giao nhiệm vụ cho các em; ngược lại, học sinh sử dụng máy tính bảng để gửi câu hỏi, câu trả lời tới màn hình tương tác của giáo viên…
Để có cái nhìn trực quan về việc dạy và học theo cách thức rất mới mẻ này, chúng tôi đã đến Trường Tiểu học Vĩnh Khê (thị trấn Mạo Khê), trường xây dựng mô hình “Trường học thông minh – Lớp học thông minh” đầu tiên của huyện.
Mô hình “Lớp học thông minh” triển khai tại Trường Tiểu học Vĩnh Khê (Đông Triều).
Thời gian tới, Đông Triều sẽ tiếp tục xây dựng mô hình này ở 4 trường khác với việc đầu tư hoàn thiện từ 3-7 phòng học thông minh/trường. Nói về ý tưởng xây dựng mô hình này, NGƯT Lưu Xuân Giới, Trưởng Phòng GD-ĐT huyện cho biết: Tôi đi tham khảo mô hình này ở một số nước châu Á, đặc biệt là ở Hàn Quốc thấy rất ưu việt, nên mạnh dạn đưa về làm ở Đông Triều. Trong nước cũng có một số nơi bắt đầu áp dụng như Hà Nội, Đồng Nai, Vĩnh Long… Ở Đông Triều, cái nền của mô hình “Trường học thông minh” đã được “trả góp” dần từ khi huyện áp dụng CNTT vào trường học từ năm 2009 với việc nối mạng internet, trang bị máy tính, camera tại các phòng học, đến giờ gần như chỉ cần trang bị bục giảng thông minh, máy tính bảng cho học sinh nữa là xong. Bên cạnh đó, Đông Triều cũng sẽ có sự sáng tạo khi vận dụng để tránh phải đầu tư lớn ngay. “Mô hình này áp dụng ở Hà Nội tốn kém hơn vì bục giảng thông minh, máy tính bảng được lắp cố định tại phòng học. Ở đây, chúng tôi làm di động vì một giáo viên cũng chỉ sử dụng phương pháp này 1 đến 2 giờ/ngày. Ban đầu, chúng tôi sẽ đưa vào phòng thiết bị dùng chung, các giáo viên của trường đăng ký ngày, giờ sử dụng, từ đó có sự sắp xếp cho phù hợp. Như vậy, cùng một bộ máy nhiều lớp đều có thể sử dụng trong ngày được…” – Ông Giới cho biết thêm.
Thực hiện mô hình này, Đông Triều đã đặt ra lộ trình 3 năm (2013-2015) để triển khai ở 50 trường tiểu học và THCS trong toàn huyện. Theo đó, với mô hình ‘Lớp học thông minh”, đến nay 100% các trường đã đạt tiêu chí phủ sóng internet đảm bảo cho các hoạt động và có nguồn tài nguyên bài giảng điện tử, bài giảng e-learning phục vụ giảng dạy cho giáo viên; 30 trường có 50% số lớp học trở lên có máy tính, máy chiếu (màn hình LCD) phục vụ cho dạy – học. Các tiêu chí khác về trang thiết bị của “Lớp học thông minh”, hệ thống phần mềm quản lý học tập hay trang thiết bị học tập của học sinh cũng bắt đầu triển khai ở một số nơi. Còn với mô hình “Trường học thông minh”, đến nay tiêu chí về internet đã hoàn thành, 50 trường đã quản lý theo mô hình hiện đại, ứng dụng các phần mềm quản lý trực tuyến trong điều hành, phát huy tốt trang thông tin điện tử của nhà trường. 30 trường có 100% số giáo viên đạt chuẩn theo quy định, ứng dụng CNTT vào giảng dạy hiệu quả; 5 trường có hệ thống camera giám sát tại các lớp học và một số điểm cần thiết khác
Phan Hằng
Thiết Kế Xây Dựng Nhà Ở,Thiết Kế Xây Dựng
THIẾT KẾ XÂY DỰNG NHÀ Ở,THIẾT KẾ XÂY DỰNG
Thiết kế xây dựng nhà ở,thiết kế xây dựng
THI CÔNG TẦNG HẦM
Thi công tầng hầm theo phương pháp Bottom up
1. Các phương pháp thi công. 1.1. Phương pháp đào đất trước sau đó thi công nhà từ dưới lên : a.) Trình tự:
1) ĐÀO ĐẤT 2) XÂY NHÀ
Đây là phương pháp cổ điển được áp dụng khi chiều sâu hố đào không lớn,thiết bị thi công đơn giản,mặt bằng rộng rãi.Toàn bộ hố đào được đào đến độ sâu thiết kế (Độ sâu đặt móng),có thể dùng phương pháp đào thủ công hay đào máy phụ thuộc vào chiều sâu hố đào,tình hình địa chất thuỷ văn,vào chiều sâu hố đào,tình hình địa chất thuỷ văn,vào khối lượng đất cần đào và nó còn phụ thuộc vào thiết bị máy móc, nhân lực của công trình.
Sau khi đào xong,người ta cho tiến hành xây nhà theo thứ tự bình thường từ dưới lên trên,nghĩa là từ móng lên mái.Để đảm bảo cho hệ hố đào không bị sụt lở trong quá trình thi công người ta dùng các biện pháp giữ vách đào theo các phương pháp truyền thống nghĩa là ta có thể đào theo mái dốc tự nhiên (Theo góc Ø của đất). Hoặc nếu khi mặt bằng chật hẹp không cho phép mở rộng ta luy mái dốc hố đào thì ta có thể dùng cừ để giữ tường hố đào
b.) Ưu điểm:
Ưu điểm của phương pháp này là thi công đơn giản, độ chính xác cao,hơn nữa các giải pháp kiến trúc và kết cấu cho tầng hầm cũng đơn giản vì nó giống phần trên mặt đất.Việc xử lý chống thấm cho thành tầng hầm và việc lắp đặt hệ thống mạng lưới kỹ thuật cũng tương đối thuận tiện dễ dàng.Việc làm khô hố móng cũng đơn giản hơn, ta có thể dùng bơm hút nước từ đáy móng đi theo hố thu nước đã được tính toán sẵn
c) Nhược điểm:
Nhược điểm của phương pháp này là : khi chiều sâu hố đào lớn sẽ rất khó thực hiện,đặc biệt khi lớp đất bề mặt yếu.Khi hố đào không dùng hệ cừ thì mặt bằng phải rộng đủ để mở taluy cho hố đào.Xét về mặt an toàn cho các công trình lân cận hay cho những công trình xây chen thì biện pháp này không khả thi, còn xét về chiều sâu hố đào khi quá lớn nếu dùng biện pháp này ta sẽ phải đào thành nhiều đợt,nhiều bậc và độ ổn định cũng như an toàn cho thi công ta phải bàn đến.
Thiết kế xây dựng nhà ở,thiết kế xây dựng
a) Đào đất theo mái dốc tự nhiên
a) b)
b) Đào đất có cừ chống
c) Hố đào thành nhiều tầng có cừ chắn không không chống
c)
d) Ván cừ giữ vách hố đào không chống khi các cột chống không ảnh hưởng đến thi công tầng hầm
d)
Thiết kế xây dựng nhà ở,thiết kế xây dựng
e) Ván cừ giữ vách có neo
Qua thực tế ta có thể đưa ra các phương án giữ vách hố đào theo phương pháp thi công cổ điển như :
Đào đất theo độ dốc tự nhiên,phương pháp này chỉ áp dụng khi hố đào không sâu,với đất dính,góc ma sát trong Ø lớn mặt bằng thi công rộng rãi đủ để mở taluy mái dốc hố đào và để thiết bị thi công cũng như chứa đất được đào lên.
– Dùng ván cừ đặt thành nhiều tầng (Không chống). Hố đào được đào thành nhiều bậc, mở rộng phía trên áp dụng cho trường hợp khi ván cừ không đủ dài để chống một lần hoặc khi hố đào quá sâu, thi công đào đất bằng phương pháp thủ công và khi có yêu cầu hố đào phải thông thoáng để thi công tầng hầm.
– Dùng ván cừ có chống hoặc có neo, hố đào được đào thẳng đứng.Dùng cừ có chống khi cột chống không ảnh hưởng đến thi công tầng hầm, còn khi có sự đòi hỏi thoáng đãng trong hố đào để thi công tầng hầm ta phải dùng neo,neo này được neo trên mặt đất. Loại ván cừ có chống hoặc neo dùng khi áp lực đất lớn.
1.2. Thi công tường nhà làm tường chắn đất.
1.2.1. Trình tự thi công :
Theo phương pháp này, sau khi thi công xong cọc và tường vây, cọc vây hoặc hệ thống cừ bao xung quanh công trình, nhà thầu sẽ tiến hành đào đất tới những độ sâu nhất định sau đó tiến hành.
Thiết kế xây dựng nhà ở,thiết kế xây dựng
Lắp đặt hệ thống chống bằng thép hình (Bracsing System) hoặc hệ thống neo để chống đỡ vách tường tầng hầm trong quá trình đào đất và thi công các tầng hầm. Tùy theo độ sâu đáy đài mà thiết kế có thể yêu cầu một hay nhiều hệ tầng chống khác nhau nhằm đảm bảo đủ khả năng chống lại áp lực đất và nước ngầm phía ngoài công trình tác động lên vách tường tầng hầm.
Sau khi lắp dựng xong hệ chống đỡ và đất được đào đến đáy móng,nhà thầu sẽ thi công hệ móng và các tầng hầm,tầng thân của công trình từ phía dưới lên theo đúng trình tự thi công thông thường.Hệ thống chống có thể được sử dụng như là lõi cứng cho các cấu kiện dầm/sàn của tầng hầm hoặc sẽ được dỡ bỏ sau khi các sàn tầng hầm đủ khả năng chịu lại các áp lực tác dụng lên vách tầng hầm.
Phương pháp này có ưu điểm rất lớn là không cần dùng ván cừ để giữ vách hố đào.Trình tự thi công công trình vẫn theo thứ tự như xưa tức là xây từ dưới xây lên. Để áp dụng được phương pháp này thì tường bao của công trình phải được thiết kế bảo đảm chịu được tải trọng do áp lực đất gây ra với nó đồng thời có đủ điều kiện để thi công tường bao bằng phương pháp ”cọc barret”.
Nhược điểm của nó là thời gian thi công dài và phải thi công xong tường bao, cọc (nếu có) rồi mới đến đào đất và xây công trình. Nếu trường hợp tường bao không tự chịu áp lực thì ta phải có biện pháp chống tường bằng các hệ chống đỡ hoặc bằng neo bê tông.
Trên hình 3 trình bày 3 giai đoạn thi công theo phương pháp tường trong đất từ dưới lên : Giai đoạn đầu (Hình 3a) ta tiến hành thi công tường trong đất từ dưới lên, giai đoạn 2 (Hình 3b) ta tiến hành đào đất trong lòng tường bao và giai đoạn 3 (Hình 3c) ta tiến hành thi công tầng hầm tự dưới lên.
Thiết kế xây dựng nhà ở,thiết kế xây dựng
Hình : Ba giai đoạn thi công tầng hầm
1.2.2 Thi công cọc và tường chắn.
Quá trình thi công cọc và tường chắn được thực hiện cùng lúc trên mặt đất tự nhiên. Phương pháp này hầu hết móng cọc được dùng là móng cọc khoan nhồi. Cọc khoan nhồi được thi công trên mặt đất đến cao độ của tầng hầm thì dừng lại.
Sau đó dùng cát lấp phần trên lại để tiện cho việc thi công các công tác khác. Tường chắn được thi công ở quanh mặt bằng hố móng công trình có tác dụng giữ đất thành hố đào và giữ mực nước ngầm ở ngoài mặt bằng thi công tầng hầm.
Các giải pháp chống vách đất
Để cho hố đào được ổn định trong quá trình thi công, với giá thành hạ,ta phải chọn phương án đào và chống vách đất hợp lý theo các nguyên tắc sau :
– Phải đảm bảo về cường độ cũng như độ ổn định dưới tác dụng của áp lực đất và các loại tải trọng do được cắm sâu vào đất, neo trong đất hoặc được chống đỡ từ trong lòng hố đào theo nhiều cấp khác nhau, an toàn trong quá trình thi công.
– Phải phù hợp với biện pháp đào đất và công nghệ thi công phần ngầm.
– Thi công phải đơn giản, giá thành hạ.
– Luôn chú ý đến khả năng sử dụng lại sau khi công trình hoàn thành.
Thiết kế xây dựng nhà ở,thiết kế xây dựng
Thiết kế xây dựng nhà ở
,thiết kế xây dựng,giá xây nhà,báo giá xây nhà phần thô,sửa nhà
Cọc đóng: Đóng cọc thưa cách nhau một khoảng từ 0,8 ¸ 1,5m đào đến đâu thì ghép ván đến đó.Cọc đóng thường là cọc thép hình (I hay H), ván gỗ.Nó được áp dụng khi hố không sâu,áp lực đất nhỏ, không có nước ngầm chảy mạnh.
Gỗ và cọc sau khi thi công được thu hồi để sử dụng lại.
Tường cừ thép Tường cừ thép cho đến nay được sử dụng rộng rãi làm tường chắn tạm trong thi công tầng hầm nhà cao tầng. Nó có thể được ép bằng phương pháp búa rung gồm một cần trục bánh xích và cơ cấu rung ép hoặc máy ép thuỷ lực dùng chính ván cừ đã ép làm đối trọng. Thông thường có hai phương pháp thi công sau:
– Đóng ván cừ thép không chống làm việc dưới dạng công-xôn,áp dụng khi hố đào nông, có nước ngầm. Ván cừ thép sẽ được thu hồi bằng máy nhổ cọc hay cần trục tháp sau khi đã thi công xong tầng hầm.
– Đóng cọc thép phun vữa bê tông giữ đất. Cọc thép được đóng xuống đất hết chiều sâu thiết kế. Đào đến đâu ta tạo mặt vòm giữa các cọc luôn bằng cách phun vữa bê tông lên vách đất tạo thành những vòm nhỏ, chân đạp vào các cọc giữ đất lở vào hố móng.
– Phương án này được áp dụng khi đất rời, không có nước ngầm hay đất dẻo. Trường hợp này giống (a) nhưng tiết kiệm được gỗ, cọc có thể thu hồi được.Phương pháp này rất thích hợp khi thi công trong thành phố và trong đất dính
Giữ thành hố đào bằng tường cừ thép
(còn tiếp)
Thiết kế xây dựng nhà ở,thiết kế xây dựng
An Toàn Trong Xây Dựng
An toàn trong xây dựng là giải pháp phòng chống tác động của các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại nhằm bảo đảm không làm suy giảm sức khỏe, thương tật, tử vong đối với con người, ngăn ngừa sự cố gây mất an toàn lao động trong thi công xây dựng công trình.
Chủ đầu tư trước khi xây dựng công trình cần phải tìm hiểu kỹ những công ty chuyên nghiệp, đẳng cấp để có thể an tâm giao thầu công trình. Yêu cầu cần có đủ chứng chỉ, bằng cấp về an toàn. Với mục đích để công trình xây dựng được thuận lợi, thi công đúng chất lượng, đúng chi phí và sau khi công trình hoàn thành xong chủ nhà có được tâm lý bình an, sống vui vẻ hạnh phúc cùng với người thân trong ngôi nhà mơ ước của mình.
Tại sao cần đảm bảo an toàn trong xây dựng?
Ngành xây dựng là ngành đang có tốc độ phát triển nhất hiện nay khi mà ngày càng nhiều công trình, khu công nghiệp, nhà máy, chung cư được xây dựng. Và đây là nghề tiềm ẩn nhiều nguy cơ tai nạn lao động xảy ra.
Người làm xây dựng thường luôn ở trong các tình huống rất nguy hiểm ở công trường. Chẳng hạn như gạch rớt, giàn giáo bị sập, rớt ở trên cao xuống, ngã vào hố, giẫm đinh và các vật dụng làm việc.
Các máy móc, các thiết bị có thể bị rò rỉ điện, nhiệt khiến người lao động gặp nguy hiểm chưa kể làm việc ở ngoài công trường con người luôn phải đối mặt với sự khắc nghiệt của thời tiết nắng mưa thất thường dễ bị bệnh, say nắng, choáng váng ngã từ trên cao xuống cực kì nguy hiểm.
Các thiết bị máy móc làm việc không đảm bảo an toàn do lâu ngày không kiểm tra, bảo dưỡng, sửa chữa nên khi làm việc dễ dàng bị gặp sự cố ảnh hưởng đến tính mạng người lao động.
Công trường thường tiềm ẩn nhiều nguy cơ nguy hiểm cho người lao động mà nếu không cẩn thận thì sự cố sẽ xảy ra gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng người lao động, ảnh hưởng đến việc thi công công trình và uy tín nhà thầu.
Trách nhiệm quản lí an toàn xây dựng của nhà thầu
▪️ Làm đề xuất, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho người, máy móc, thiết bị, tài sản, công trình đang thi công; máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ thi công có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn cần phải được kiểm định trước khi đưa vào sử dụng.
▪️ Thực hiện thành lập tổ chức bộ phận quản lí an toàn lao động đủ tiêu chuẩn theo quy định.
▪️ Kiểm tra công tác quản lí an toàn trong thi công công trình xây dựng.
▪️ Tổ chức lập biện pháp thi công riêng, chi tiết với những công việc đặc thù, có nguy cơ mất an toàn lao động cao được quy định trong các quy chuẩn kĩ thuật quốc gia.
▪️ Dừng thi công khi phát hiện nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, sự cố gây mất an toàn lao động và có biện pháp khắc phục khi xảy ra sự cố.
▪️ Khắc phục hậu quả tai nạn lao động, sự cố gây mất an toàn lao động xảy ra trong quá trình thi công xây dựng.
▪️ Định kì hoặc đột xuất báo cáo chủ đầu tư về kết quả thực hiện công tác quản lí an toàn lao động theo quy định của hợp đồng xây dựng.
Các yêu cầu chung đối với an toàn trong xây dựng:
▪️ Không được phép thi công khi chưa có đủ tài liệu, hồ sơ thiết kế biện pháp kĩ thuật và tổ chức thi công với đủ các nội dung về biện pháp an toàn và phòng chống cháy, nổ.
▪️ Máy xây dựng phải được kiểm định.
▪️ Lao động làm việc trên cao, hầm sâu phải có túi đựng dụng cụ đồ nghề, không được thả, ném các loại vật liệu, dụng cụ, đồ nghề từ trên cao xuống.
▪️ Đối với công việc trên sông nước phải là người lao động được huấn luyện an toàn trong xây dựng.
▪️ Đối với công việc trên công trường người lao động phải sử dụng đúng, đầy đủ các phương tiện bảo hộ cá nhân.
▪️ Làm việc độ cao 2m trở lên hoặc dưới 2m nếu dưới chỗ làm có chướng ngại vật nguy hiểm phải có dây đai hoặc lưới an toàn trong xây dựng. Nếu không được được sàn thao tác có lan can an toàn trong xây dựng thì không được phép cho người lao động làm việc.
▪️ Không được thi công cùng một lúc ở hai hoặc nhiều tầng trên một phương thẳng đứng, nếu không có thiết bị bảo vệ an toàn cho người bên dưới.
▪️ Không được làm việc trên giàn giáo, ống khói, đài nước, cột điện, trụ hoặc hầm cầu, mái nhà hai tầng trở lên khi mưa to, giông, bão hoặc có gió từ cấp 5 trở lên. Sau đợt mưa bão, sau khi dừng thi công nhiều ngày phải kiểm tra lại các điều kiện an toàn trước khi thi công tiếp.
▪️ Có biện pháp an toàn xây dựng để thông giúp và phương tiện đề phòng khí độc, sập lỡ khi làm ở giếng sâu, hầm, thùng kín.
▪️ Hệ thống an toàn lao động trên công trường phải lắp đủ đèn chiếu sáng và không được phép thi công đêm ở nơi không có đèn sáng công suất 100-300 lux đối với nơi làm việc và chiếu sáng chung 30-80 lux.
▪️ Có hệ thống chống sét bảo vệ toàn bộ công trường trong quá trình thi công.
▪️ Khi trên công trường xây dựng có nguy cơ phơi nhiễm phóng xạ hoặc ở những công trường xây dựng có chứa có nguồn phóng tự nhiên, cần tuân thủ theo quy định hiện hành của nhà nước về an toàn và kiểm soát bức xạ.
▪️ Công trường phải có sổ nhật kí an toàn lao động và ghi đầy đủ tình hình sự cố, tai nạn, biện pháp khắc phục và xử lí trong quá trình thi công.
▪️ Công trường xây dựng, mọi vị trí làm việc phải giữ gọn gàng, ngăn nắp. thiết bị để đúng quy định, vật liệu được thu dọn.
Một số phương pháp đảm bảo an toàn lao động trong xây dựng
▪️ Khu vực thực hiện thi công phải luôn gọn gàng, loại bỏ tối đa các yêu tố có khả năng gây mất an toàn như: vật sắc nhọn, dụng cụ xây dựng không cần thiết, dây điện bị hở, ổ cắm nối tiếp không đảm bảo chất lượng.
▪️ Bố trí hợp lí các biện quản cáo và nội quy an toàn lao động. Các biển này nên ở những vị trí mà tất cả mọi người đều có thể dễ dàng quan sát, thường xuyên thấy.
▪️ Đối với những vị trí có thể gây nguy hiểm trên công trường, đơn vị thực hiện thi công bắt buộc phải bố trí người hướng dẫn, thực hiện nhiệm vụ cảnh báo để đề phòng tai nạn cho người lao động.
▪️ Người lao động phải được bảo vệ trang bị bảo hộ lao động gồm quần áo, mũ nón, giày, găng tay và các thiết bị cần thiết.
▪️ Chủ đầu tư cùng với nhà thầu thi công phải có kế hoạch dự trù trong xử lí tai nạn. Khi có sự chủ động và biện pháp xử lí kịp thời, công trường sẽ không bị rối và hạn chế tối đa thiệt hại về người và của.
Hồ sơ an toàn trong xây dựng
▪️ Quyết định thành lập ban an toàn lao động của công ty.
▪️ Quyết định thành lập mạng lưới an toàn vệ sinh của dự án.
▪️ Phiếu giao việc cho cán bộ an toàn.
▪️ Nội quy công trường
▪️ Nội quy an toàn lao động.
▪️ Danh sách công nhân.
▪️ Bản cam kết đã học an toàn lao động.
▪️ Bản cam kết an toàn thi công xây dựng.
▪️ Biên bản huấn luyện ATVSLĐ.
▪️ Nội dung học an toàn.
▪️ Nhật kí an toàn.
▪️ Sổ giao việc.
▪️ Sổ kiến nghị.
▪️ Sổ theo dõi cấp phát phương tiện bảo vệ cá nhân.
▪️ Sổ theo dõi công tác huấn luyện an toàn.
▪️ Sổ theo dõi tai nạn lao động.
▪️ Sổ theo dõi công tác khám sức khỏe và bệnh nghề nghiệp.
▪️ Sổ theo dõi máy móc thiết bị
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ CHỨNG NHẬN CRS VINA
📞 Hotline: 0903.980.538 💧 0984.886.985
🌧️ Website: https://kiemdinhthietbi.info/
🌧️ Facebook: https://www.facebook.com/daotaoantoancrsvina/
🌧️ Email: lananhcrsvina@gmail.com
🔱 Văn phòng tại chúng tôi 331/70/92 Phan Huy ích, P.14, Q.Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh
🔱 Chi nhánh Bắc Ninh: Đường Âu Cơ, KĐT Hòa Long – Kinh Bắc, Phường Vạn An, Thành phố Bắc Ninh.
🔱 Chi nhánh Hà Nội: Số nhà 24 ngách 25, Ngõ 97, Phố Khương Trung, Phường Khương Trung, Quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội.
5
/
5
(
2
bình chọn
)
Tập Trung Xây Dựng Tổ Chức Hội Lhpn Vững Mạnh, Tích Cực Tham Gia Xây Dựng Đảng, Xây Dựng Chính Quyền
(Haiphong.gov.vn) – Chiều 7/1, Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) quận Lê Chân tổ chức Hội nghị tổng kết công tác vận động phụ nữ năm 2020; triển khai nhiệm vụ, ký giao ước thi đua năm 2021. Tới dự có đồng chí Vũ Thị Kim Liên, Ủy viên Thành ủy, Chủ tịch LHPN thành phố.
Quang cảnh Hội nghị
Năm 2020, Hội LHPN quận đã triển khai sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ tích cực tham gia thực hiện các hoạt động của Hội nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả công tác an sinh xã hội, các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và phong trào chung của Hội LHPN thành phố. Tập trung chỉ đạo cơ sở hoàn thành tốt các nhiệm vụ chỉ tiêu năm 2020.
Các tập thể được nhận Bằng khen của Trung ương Hội LHPN Việt Nam
Các tập thể, cá nhân được nhận Bằng khen của Hội LHPN thành phố
Đến nay, tổng số nguồn vốn toàn quận quản lý trên: 93,280,28 tỷ cho 2.934 hộ vay; hỗ trợ 400 hộ cận nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vay vốn khởi nghiệp phát triển kinh tế, tạo việc làm ổn định phát triển kinh tế gia đình. Hội đã khởi công hỗ trợ xây mới 3 nhà và sửa chữa 3 nhà “Mái ấm tình thương” cho hội viên có hoàn cảnh khó khăn, đơn thân, yếu thế…
Các tập thể, cá nhân được nhận Giấy khen của UBND quận Lê Chân
Các tập thể, cá nhân được nhận Giấy khen của Hội LHPN quận Lê Chân
Các đơn vị ký giao ước thi đua năm 2021
Nhân dịp này, nhiều tập thể, cá nhân được nhận Bằng khen, Giấy khen của Trung ương Hội LHPN Việt Nam, Hội LHPN thành phố, UBND quận Lê Chân và Hội LHPN quận Lê Chân.
Tại Hội nghị, các đơn vị đã ký giao ước thi đua năm 2021. Phương Trang
Tạp Chí Xây Dựng Đảng
Sau khi tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, thì bên cạnh việc phát huy những ưu điểm, nhân tố tích cực, điều có ý nghĩa quan trọng và cũng khó làm hơn là khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém của mỗi tổ chức, cá nhân. Việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế có quan hệ chặt chẽ với kết quả tự phê bình, là một “bộ phận”, một nội dung trong quá trình tự phê bình, phê bình. Đồng thời có quan hệ với toàn bộ hoạt động của mỗi tập thể, mỗi cá nhân. Giải pháp khắc phục phải được đặt trong tổng thể quá trình kiểm điểm, tự phê bình, phê bình.
Trong hoạt động của hệ thống chính trị, tự phê bình, phê bình là nội dung rất quan trọng, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là công cụ để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, là một nguyên tắc cơ bản, công việc thường xuyên trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm điểm tự phê bình, phê bình, đánh giá cán bộ trong các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm điểm hằng năm. Trong đó, Ban Thường vụ chú trọng chỉ đạo việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế của từng cơ quan, đơn vị qua kiểm điểm, đánh giá. Những năm gần đây, vận dụng các quy định, quy trình về công tác kiểm tra, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế, yếu kém của các đơn vị, địa phương một cách cụ thể hơn. Nhờ vậy, việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém càng được thực thi chặt chẽ, nghiêm túc và đạt hiệu quả cao hơn.
Cùng với chỉ đạo cấp dưới kiểm điểm tự phê bình, phê bình, tập thể Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị cũng đã thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình, phê bình và khắc phục những hạn chế, yếu kém sau tự phê bình, phê bình bằng những giải pháp cụ thể. Cuộc kiểm điểm tự phê bình, phê bình công tác lãnh đạo, chỉ đạo năm 2002 của tập thể Ban thường vụ tỉnh ủy đã để lại những kinh nghiệm quý trong công tác này. Khi đó, Ban thường vụ tỉnh uỷ Quảng Trị đã chú trọng tập trung sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, hạn chế một cách cụ thể, nghiêm túc, quyết liệt bằng một chương trình hành động cụ thể. Trên cơ sở chỉ đạo của Ban thường vụ tỉnh ủy, cấp ủy và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc đã tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém tại địa phương, đơn vị.
Nhờ nghiêm túc thực hiện tự phê bình, phê bình, khắc phục khuyết điểm, hạn chế nên đoàn kết nội bộ trong Đảng bộ đã được giữ vững và tăng cường; kinh tế- xã hội tiếp tục phát triển, quốc phòng – an ninh được giữ vững, xây dựng Đảng từng bước tiến bộ, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Những kinh nghiệm quý báu đã được rút ra từ quá trình thực hiện tự phê bình, phê bình trong thời gian qua. Chính những kinh nghiệm này là cơ sở để các tổ chức và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Quảng Trị phát huy và vận dụng vào quá trình kiểm điểm, tự phê bình, phê bình trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Với những kết quả, cách làm trong những năm qua, cùng với tư tưởng chỉ đạo qua bước triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 ( NQTW4) (khoá XI) ở Quảng Trị, chúng tôi xin nêu một số giải pháp khắc phục những khuyết điểm, hạn chế sau tự phê bình, phê bình, góp phần vào việc tìm cách làm, giải pháp thực hiện tốt nghị quyết quan trọng này của Trung ương.
Thứ nhất, phải làm thật tốt công đoạn “tiền khắc phục” từ nhận thức, quan điểm, phương châm, nội dung đến thực hiện cụ thể. Theo đó tự phê bình, phê bình đối với tổ chức, cá nhân phải được tiến hành nghiêm túc, đầy đủ, có nguyên tắc, trên tinh thần đồng chí chân thành.
Cấp uỷ các cấp khi tổ chức và chỉ đạo thực hiện phải truyền đạt, quán triệt đầy đủ các quan điểm, nguyên tắc, quy định của Trung ương, của cấp trên về tự phê bình, phê bình, làm cho cán bộ, đảng viên thấu suốt mục đích, mục tiêu vừa có tính nguyên tắc, vừa mang tính nhân văn cao trong tự phê bình, phê bình trong Đảng. Đồng thời xác định phương châm thực hiện ở cấp mình, đơn vị, địa phương mình cho phù hợp để tự phê bình, phê bình được thực hiện đúng, trúng và hiệu quả… Ví dụ, về nội dung kiểm điểm tự phê bình, phê bình tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, về tham nhũng, lãng phí … thì mặc dù có tính phổ biến, song có thể nói có sự khác nhau theo từng cấp, từng đối tượng khá rõ. Trong thực hiện kiểm điểm tự phê bình, phê bình theo tinh thần NQTW4 (khoá XI) thì những tính chất, yêu cầu này có ý nghĩa lớn, cần đặc biệt quan tâm.
Nội dung tự phê bình, phê bình, nhất là những khuyết điểm, hạn chế của tổ chức, cá nhân, được nêu ra khi tự phê bình và góp ý, nhận xét khi phê bình phải chân thành, có lý, có tình, rõ ràng, thuyết phục… tránh khập khiễng, xa rời, thậm chí mâu thuẫn giữa thực tế tình hình và các báo cáo kiểm điểm (kế cả của tập thể và cá nhân). Sau khi đã xác định được những hạn chế, yếu kém, phải nêu rõ các biện pháp và thời gian khắc phục và phải coi đây là nội dung thiết yếu trong lần tự phê bình, phê bình này. Đồng thời tuỳ vai trò, chức trách, ưu điểm, khuyết điểm để vạch kế hoạch khắc phục cho phù hợp, toàn diện. Trong tham gia các biện pháp khắc phục đối với cán bộ cần thể hiện tinh thần động viên cán bộ quyết tâm khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Phải thực hiện đúng tinh thần kiểm điểm cốt để giúp cán bộ, đảng viên thấy được và sửa chữa khuyết điểm mà tiến bộ, tinh thần “trị bệnh cứu người”.
Việc chuẩn bị chu đáo và thực hiện nghiêm túc bước kiểm điểm, tự phê bình, phê bình là yếu tố tiền đề, căn bản cho việc khắc phục có kết quả hạn chế, yếu kém của tổ chức và cá nhân. Mọi sự chủ quan, đơn giản, qua loa đều dẫn đến làm mất hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, vô hiệu hoá việc khắc phục hạn chế, yếu kém – nói chung, bao giờ cũng có – sau tự phê bình, phê bình.
Thứ hai, công khai kết quả tự phê bình, phê bình của các tổ chức, cá nhân – cả ưu điểm, lẫn khuyết điểm – trong phạm vi, đối tượng thích hợp để quần chúng, cán bộ, đảng viên hiểu biết về những công bộc, đại biểu, người cán bộ lãnh đạo, quản lý của đơn vị, địa phương mình. Từ đó có điều kiện, căn cứ tham gia góp ý, giám sát việc rèn luyện, phấn đấu của những cán bộ, đảng viên đó, kể cả việc khắc phục hạn chế, yếu kém của cá nhân sau tự phê bình, phê bình, cũng như trong quá trình hoạt động, công tác nói chung. Đây là yêu cầu mà NQTW4 (khoá XI) đặt ra rất cao, là kỳ vọng lớn trong cuộc kiểm điểm tự phê bình, phê bình lần này.
Phạm vi công khai kết quả kiểm điểm, đánh giá cán bộ, nói chung, càng rộng càng tốt. Đối tượng công khai nên là tất cả cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trước hết, theo phân cấp quản lý cán bộ, cấp uỷ các cấp cần công khai kết quả kiểm điểm, đánh giá cán bộ đến cán bộ, công chức, người lao động nơi công tác, đến nhân dân nơi cư trú đối với một số chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan của đảng, chính quyền, đoàn thể thuộc cấp mình quản lý. Đối với cấp tỉnh, đó là cán bộ lãnh đạo, quản lý từ phó giám đốc sở và tương đương trở lên. Công khai kết quả đánh giá đại biểu HĐND các cấp, đại biểu Quốc hội đến cử tri.
Cần nghiên cứu thực hiện tự phê bình, phê bình công khai hơn, theo hướng mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia phê bình. Thông tin quá trình tự phê bình, phê bình của tập thể, cá nhân đến cán bộ, công chức, nhân dân bằng nhiều hình thức và trong phạm vi thích hợp. Gắn tự phê bình, phê bình với thực hiện chất vấn trong Đảng.
Thứ ba, tổ chức và cá nhân thực hiện việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém sau tự phê bình, phê bình nghiêm chỉnh, chặt chẽ, có giám sát. Đây là biện pháp trung tâm, trực tiếp, có ý nghĩa quyết định hiệu quả việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế.
Phải thống nhất nhận thức rằng, nội dung, kế hoạch khắc phục khuyết điểm, hạn chế là lời hứa nghiêm túc, hệ trọng của cán bộ, công chức, đảng viên với tổ chức, với nhân dân trong kiểm điểm tự phê bình, phê bình, nhất là với cán bộ lãnh đạo. Nó đặc biệt quan trọng trong thực hiện NQTW4 (khoá XI) lần này. Vì vậy, trên cơ sở các nội dung, biện pháp đã đề ra, mỗi tổ chức, cá nhân phải bắt tay thực hiện việc khắc phục, sửa chữa một cách tự giác, nghiêm chỉnh.
Hằng năm, sau tự phê bình, phê bình, mỗi tổ chức, cá nhân đều phải kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế. Có thể trong một số trường hợp, việc kiểm điểm, đánh giá kết quả khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trước đó trở thành nội dung chính của đánh giá năm công tác. Cần lấy kết quả khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, yếu kém là tiêu chí đánh giá về sự liêm chính, trung thực, cầu tiến bộ, cũng như khả năng tự hoàn thiện, thích ứng của người cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, khi đánh giá kết quả khắc phục cần lưu ý, đây là một quá trình cần có thời gian nhất định, không phải diễn ra giản đơn, ngày một, ngày hai. Có những việc, có những người, tổ chức cũng cần phải biết và sẵn sàng chờ đợi, động viên, tạo điều kiện để cá nhân sửa chữa. Cùng với sự tự giác của mỗi tổ chức, cá nhân, việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế cần được đặt trong quá trình kiểm tra, giám sát của tổ chức để bảo đảm tính chặt chẽ, có nguyên tắc. Tuy nhiên cách làm phải linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng; sử dụng triệt để hình thức, các công cụ đang sử dụng hiện nay, như báo cáo tự kiểm điểm hàng năm; hình thức tự giám sát…
Thứ tư, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện tự phê bình, phê bình. Trước hết người đứng đầu phải đi đầu trong việc tự phê bình, phê bình và thể hiện việc làm, hành động khắc phục, sửa chữa hạn chế, yếu kém một cách rõ nét, có sức thuyết phục… Đồng thời, bằng hình thức thích hợp, người đứng đầu có sự quan tâm, động viên, chỉ dẫn để cán bộ của cơ quan, đơn vị mình sửa chữa, khắc phục khuyết điểm một cách nghiêm túc, tự giác, nhất là đối với những người có khuyết điểm nặng, có nhiều hạn chế.
Tấm gương của người đứng đầu trong tự phê bình, phê bình và khắc phục khuyết điểm, hạn chế là nhân tố có tác dụng khuyến khích, động viên, có ý nghĩa cổ vũ, thuyết phục mạnh đối với cán bộ cấp dưới.
Thứ năm, coi trọng trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên trong tự phê bình, phê bình và khắc phục hạn chế, yếu kém. Đây là nhân tố then chốt bảo đảm sự thành công trong tự phê bình, phê bình.
Trước hết, cần thể hiện trách nhiệm, quyền hạn của cấp trên trong việc đảm bảo sự nhất quán trong toàn bộ quá trình thực hiện tự phê bình, phê bình và khắc phục hạn chế, yếu kém. Trong đó cần chú trọng về quan điểm, phương châm, cách làm, và nhất là xem xét, xử lý kết quả tự phê bình, phê bình một cách chặt chẽ, có nguyên tắc, có lý, có tình; sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, phẩm chất, hiệu quả công việc; đồng thời phải xử lý nghiêm minh, đúng mức đối với những cán bộ có khuyết điểm, sai phạm đến mức phải xem xét các hình thức kỷ luật.
Ban Tổ chức tỉnh ủy Quảng Trị
[1]. Chương trình hành động số 34 CTHĐ/TU ngày 5-11-2003 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị.
Bạn đang xem bài viết Xây Dựng “Trường Học Thông Minh” Ở Đông Triều trên website Theindochinaproject.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!